Sau hơn một năm rưỡi chống dịch,
tình hình đã có nhiều thay đổi, từ chỗ Việt Nam tạo đê bao ngăn dịch
từ bên ngoài tràn ngoài vào sang việc phải chống đỡ với những ổ bệnh có
sẵn trong cộng đồng. Mặt khác, chúng ta đã cơ bản kiểm soát được làn
sóng dịch thứ tư ở hai trung tâm kinh tế chính trị và đang bước vào
giai đoạn “bình thường mới” nhưng một loạt các tỉnh khác vẫn đang
đứng trước nguy cơ bùng dịch… Nhìn tổng thể, Việt Nam đã kiểm soát
tốt ba đợt dịch đầu tiên khi dựa trên các bằng chứng khoa học sớm
nhưng cũng có những lúc lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn khi chống
dịch ở TP. HCM. Vì thế, trong buổi gặp mặt với Bộ KH&CN, các bộ,
ngành liên quan và các nhà khoa học vào ngày 18/10, Phó Thủ tướng Vũ
Đức Đam đã nhấn mạnh đến những tình huống cam go, “trước hai luồng ý kiến
khác nhau và khả năng giải quyết ngang bằng nhau thì chúng ta đã quyết định
theo phương thức đề xuất của các nhà khoa học. Khi nhìn lại thì tất cả đều
nhìn nhận là chúng ta đã đi đúng… Do đó, việc trao đổi những kinh nghiệm
xương máu sẽ cho phép chúng ta có những giải pháp bước sang một giai
đoạn mới, thích ứng linh hoạt và kiểm soát an toàn”.
Giải bài toán thực tiễn nhờ
các hiểu biết cơ bản
Dù không thể điểm hết nỗ lực vào
cuộc một cách thầm lặng của các nhà khoa học ngay từ những ngày
đầu bùng phát, Phó Thủ tướng nhiều lần vẫn nhấn mạnh đến các quyết
định chống dịch đều dựa trên cơ sở hiểu biết khoa học về virus. Vào
nhiều thời điểm có những biến chuyển mới thì hiểu biết về dịch bệnh đã
đem lại gợi ý cho những thay đổi về các chính sách ứng phó cũng như những
hướng dẫn cụ thể. Lấy dẫn chứng về vaccine, Phó Thủ tướng cho rằng quan
điểm về tầm quan trọng của vaccine trong chống dịch này cũng đã thay đổi,
từ chỗ chúng ta đều nghĩ là tiêm vaccine thì sẽ ngăn chặn, cắt được quá
trình lây lan nhưng bằng chứng mới về các biến thể, thực tế tiêm
vaccine ở các nước khác đã cho thấy tiêm vaccine chỉ giúp bảo vệ
người được tiêm tránh tử vong và tăng nặng. Mới đây, công bố trên tạp
chí The Lancet của TS.BS Nguyễn Văn Vĩnh Châu (Giám đốc Bệnh viện Bệnh
nhiệt đới TP. HCM) và các đồng sự cũng cho thấy, dù nhân viên y tế đã
tiêm đủ hai liều vaccine COVID-19 vẫn bị nhiễm SARS-CoV-2, có thể lây cho những
người khác (gồm cả những người đã tiêm đủ liều vaccine). Tải lượng virus của
chủng Delta có thể đạt đỉnh cao hơn chủng trước đây tới 251 lần nhưng tất cả
đều có triệu chứng nhẹ hoặc không có triệu chứng gì. Đây là hiểu biết rất
khác so với ban đầu.
Những hiểu biết khoa học rất cơ
bản về virus này khiến các chính sách tiêm chủng, xét nghiệm phải
thay đổi như PGS.TS Trần Đắc Phu, nguyên cục trưởng Cục Y tế dự phòng
(Bộ Y tế) nhận định “nếu cứ nghĩ là tiêm vaccine rồi cho đi lại
thoải mái (từ vùng có dịch sang vùng không có dịch) là sai lầm”,
bởi vì đặc điểm dịch bệnh ở các tỉnh, các vùng rất khác nhau. Do
đó, “chỉ khi đạt miễn dịch như nhau rồi thì các vùng mới ứng xử như
nhau được”, ông nói, ví dụ như Nam Định, Phú Thọ nếu không “quây” ca
mang virus từ TP. HCM về thì sẽ “bùng” gây nguy cơ cho người bệnh nền
và cao tuổi chưa được tiêm. Bằng kinh nghiệm từ đầu dịch tới nay, ông
khuyến cáo, hiểu biết khoa học và đặc điểm thực tiễn ở Việt Nam sẽ
giúp đưa ra những quyết định phù hợp chứ không thể học theo bài học
của các nước vì điều kiện rất khác biệt với Việt Nam.
Câu chuyện thực tế đó cho thấy
một điều không bao giờ cũ, dù dịch bệnh này hay dịch bệnh nào thì
vẫn phải ưu tiên cho nghiên cứu khoa học rất cơ bản về virus và cơ chế
xâm nhập của virus lên cơ thể con người… PGS.TS Trần Đắc Phu kiến nghị,
“trong thời gian tới vẫn cần tiếp tục tập trung cho các nghiên cứu
giải trình tự gene, điều tra dịch tễ, đưa ra cơ sở cho đáp ứng dịch
bệnh”. Ông nhấn mạnh, trong dịch bệnh, với những tình huống dẫn đến
nhiều luồng ý kiến phản hồi khác nhau, nhiều giải pháp khác nhau thì chỉ
hiểu biết khoa học mới giúp chọn được giải pháp đúng đắn và phù hợp mà
không gây nhiều tổn thất.
Thực tế đã chứng minh, việc
sản xuất vaccine hay sản xuất thuốc điều trị COVID đều cần những nền
tảng hiểu biết và kinh nghiệm sau một quá trình đầu tư nghiên cứu phát
triển trong nhiều thập niên. Hai vaccine dự tuyển của các nhà phát triển
Việt Nam như Nanocovax, COVIVAC đều có được là nhờ cả Nanogen và IVAC đều đã
có hàng chục năm thuần thục công nghệ. Tương tự, những dược phẩm chống COVID
tiềm năng khác cũng không nằm ngoài “hệ quy chiếu” này: PegLambda là sản phẩm
của nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia từ năm 2015 (đang được nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng giai đoạn 2 trên bệnh nhân Covid-19), thuốc kháng thể đơn dòng
kháng SARS-CoV-2 cũng dựa trên công nghệ mà Nanogen đã nghiên cứu nhiều
năm. Tin vui lớn nhất là sau Nanocovax, Nanogen đã tiếp tục bào chế được hai
dạng sản phẩm thuốc tiêm và thuốc xịt mũi họng (cả hai đang được tiến hành các
thủ tục để thử lâm sàng trên bệnh nhân COVID-19).
Phần lớn những năng lực ứng phó tức
thời này đều từ việc đầu tư một cách bền bỉ và thầm lặng cho nghiên
cứu y sinh dược học nói riêng và cho khoa học cơ bản nói chung, một
công việc mà Bộ KH&CN đã thực hiện và điều phối trong nhiều năm qua dưới
nhiều hình thức tài trợ, hỗ trợ như những chương trình KH&CN cấp nhà nước
như KC10 “Nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe cộng đồng”, KC04 “Nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ
sinh học”, Quỹ NAFOSTED… Đặc biệt, được hình thành từ năm 2012, ngành y sinh
dược học của Quỹ NAFOSTED đã có nhiều đề tài nghiên cứu cơ bản và ứng dụng, quy
tụ nhiều chuyên ngành hẹp trước đây chưa có điều kiện thực hiện tại Việt Nam
như mô phỏng sinh y dược học, tế bào gốc hay công nghệ nano y học.
Cần có một chiến lược tổng
thể
Với những kinh nghiệm đó, Việt Nam
sẽ tiếp tục việc chống dịch ra sao? Theo PGS.TS Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc
Bệnh viện Phổi Trung ương, sang giai đoạn mới, chúng ta vẫn cần chú
trọng đến việc điều hành tối ưu hệ thống y tế từ cấp trung ương đến cơ sở
để giám sát dịch và điều trị ứng phó, lâu dài.
Giải pháp tổng thể cho chiến lược
này là một chương trình quốc gia riêng về COVID và lao, ông đề xuất. Dưới
góc độ một chuyên gia có nhiều kinh nghiệm về lao, một loại bệnh do virus gây
ra dẫn đến những tổn thưởng ở phổi, ông cho rằng chúng có nhiều điểm tương
đồng: cùng là bệnh truyền nhiễm, lây qua đường hô hấp, vaccine chỉ ngăn chặn
được tiến triển và tử vong chứ không ngăn được nhiễm và quan trọng nhất là đều
mang tính xã hội – do tiếp xúc giữa người với người. Điểm lợi khi có được
chương trình chung là các can thiệp phòng chống Covid hầu hết đã được ứng dụng
nhiều năm trong Chương trình chống lao như phát hiện sớm, phát hiện chủ động,
ca bệnh chỉ điểm và phát hiện ở người tiếp xúc (truy vết) … Hệ thống y tế chống
lao đã được triển khai trên phạm vi toàn quốc và đã tích hợp với hệ thống y tế
chung ở tuyến cơ sở.
Không chỉ có vậy, để thực thiện
chiến lược dài hơi nhưng cấp bách trong tình hình diễn biến dịch vẫn
khó lường, chúng ta cũng cần cách thức, quan điểm quản lý mới. Theo
đề xuất của PGS.TS Nguyễn Lân Hiếu, Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà
Nội đề nghị Bộ KH&CN cần có một bộ phận riêng “chuyên lo cho
COVID” và đề xuất của PGS.TS Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế
Việt Nam (Viện Hàn lâm KHXH VN) là cơ chế đầu tư cho nghiên cứu nên việc
chuyển sang “hậu kiểm”. “Vừa qua chúng ta thấy cơ chế hậu kiểm ở hải
quan đã phát huy hiệu quả rất tốt. Thế tại sao chúng ta không chuyển
sang cơ chế hậu kiểm trong khoa học và để cho các nhà khoa học chịu
trách nhiệm?”, PGS.TS Bùi Quang Tuấn nói.
Trên thực tế, dù chưa có hẳn
một cơ quan chuyên trách riêng nhưng từ đại dịch đến nay, Bộ KH&CN
đã có những quyết định rất nhanh chóng, có cơ chế linh hoạt nhằm
phục vụ công tác chống dịch. Ngay từ năm 2020, Bộ KH&CN quyết định
đầu tư đột xuất cho 10 nhiệm vụ nghiên cứu sâu về virus, cung cấp vật
liệu và hỗ trợ tích cực cho nghiên cứu chế tạo bộ KIT, sản xuất kháng thể đơn
dòng và vaccine… phục vụ công tác chống dịch, hay đầu tư cho Nanogen
cũng là quyết định chưa có tiền lệ.
Hơn lúc nào hết, thời điểm nguy
nan của dịch bệnh cũng là thời điểm mà các nhà quản lý khoa học
đặt niềm tin vào giới nghiên cứu trong nước như bộ trưởng Bộ KH&CN
Huỳnh Thành Đạt khẳng định, một trong những bài học kinh nghiệm rút ra
từ đại dịch là “nền KH&CN của Việt Nam, với nòng cốt là các nhà khoa
học rất tâm huyết, tài năng có đủ năng lực, tiềm lực để giải quyết các bài toán
của đất nước”. Qua đây, “ngành KH&CN mong muốn tiếp tục nhận được niềm tin
của Lãnh đạo Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội, cũng như của toàn xã hội vào
các nhà khoa học trong việc cùng chung tay giải quyết các bài toán lớn của đất
nước”, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nói. Ông cũng cho biết sẽ kiên quyết
hơn nữa trong việc cắt giảm thủ tục hành chính trong việc tổ chức các nhiệm vụ
KH&CN nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để các nhà khoa học, các doanh
nghiệp tham gia thực hiện các nhiệm vụ, chương trình KH&CN do ngân sách nhà
nước tài trợ.
Phát biểu kết luận tại phiên
họp, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trân trọng cảm ơn các nhà khoa học đã
tham gia vào công tác chống dịch từ rất sớm, tâm huyết, có nhiều
đóng góp trí tuệ, thầm lặng nhưng rất hiệu quả. Ông khẳng định từ
đầu dịch đến nay tinh thần và nguyên tắc khoa học là không thay đổi,
đó là “kết hợp khoa học và thực tiễn, tính toán đến tình huống
xấu hơn, sẵn sàng cho tình huống xấu nhất, huy động toàn dân”.
Trước tình hình mới, để chung
sống an toàn với virus, Phó Thủ tướng đề nghị các cơ quan nghiên cứu
khẩn trương đánh giá tác động toàn diện của dịch bệnh COVID-19, không chỉ về
y tế mà còn kinh tế, xã hội, tâm lý, giáo dục, quản lý, điều hành
đất nước, điều hành cộng đồng, cơ quan, nhà máy xí nghiệp. Cùng với
đó là dự báo xu hướng trong tương lai để chúng ta sẵn sàng ứng phó.
Đặc biệt, dịch bệnh này và các dịch bệnh mới nổi trong tương lai
vẫn còn tiếp diễn, nên bên cạnh các chương trình đang triển khai về
vaccine, thuốc điều trị, công nghệ xét nghiệm… Bộ KH&CN cần có cơ chế
đặt hàng các nhiệm vụ KHCN mới ngay khi có yêu cầu từ thực tế.
Phó Thủ tướng cũng giao ngay nhiệm vụ cho Bộ
Y tế, Bộ KH&CN khẩn trương xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ khoa học nâng cao
năng lực hệ thống y tế cơ sở để sẵn sàng ứng phó dịch bệnh COVID-19 với bất kỳ
biến chủng nào hoặc dịch bệnh khác lây nhiễm qua đường hô hấp. “Ứng dụng các
công nghệ mới, kế thừa hệ thống, lực lượng y tế cơ sở đã có từ
trước, đặc biệt là kết hợp với hệ thống phòng chống lao để sẵn
sàng ứng xử trong tình huống từ bình thường cho đến tình huống xấu,
rất xấu, rất nghiêm trọng”, ông nhấn mạnh “nhanh nhất có thể”, “trong
ba tháng là phải có hướng dẫn xuống đến y tế cấp xã”..
Nguồn: Khoahoaphattrien.vn