Điện Biên Phủ là
một thung lủng lòng chảo rộng lớn ở phía
Tây vùng núi Tây Bắc, có chiều dài khoảng 20km, rộng từ 6-8km; cách Hà Nội
khoảng 200km, cách Luang Prabang (Lào) khoảng 190km theo đường chim bay.
Theo đánh giá của tướng H.Navarre và các nhà quân sự
Pháp-Mỹ thì “Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến
trường Đông Dương và cả miền Đông Nam Á, nằm trên trục giao thông nối liền các
miền biên giới của Lào, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar) và Trung Quốc."
"Điện Biên Phủ là một cánh đồng rộng lớn nhất, đông dân và giàu có nhất
vùng Tây Bắc." Từ Điện Biên Phủ, quân Pháp có thể bảo vệ được Lào, rồi từ
đó đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc trong những năm 1952-1953 và tạo
điều kiện thuận lợi để tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của Việt Nam.
Đánh giá Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan
trọng bậc nhất ở Đông Dương, nên sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ vào ngày
20.11.1953, quân Pháp không ngừng tăng thêm binh lực, vũ khí, trang thiết bị
quân sự, xây thêm nhiều công sự, đồn lũy và các loại vật tư khác. Được sự giúp
đỡ của Mỹ về cố vấn, trang bị kỹ thuật, kinh tế, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ
thành một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương.
Tính đến tháng 3/1954, tại Điện Biên Phủ đã có 12 tiểu
đoàn và bảy đại đội bộ binh, ba tiểu đoàn pháo binh, một đại đội xe tăng, một
phi đội máy bay thường trực (14 chiếc). Sau này trong quá trình chiến dịch,
quân Pháp tăng viện thêm bốn tiểu đoàn, hai đại đội lính dù, tổng cộng có 17
tiểu đoàn, phần lớn đều là lính tinh nhuệ. Ngoài ra còn có các quân chủng pháo
binh, công binh, thiết giáp, phân đội hỏa pháo. Tổng số quân tăng lên hơn
16.000 người và 300 máy bay vận tải tiếp tế, có sự chi viện của không quân Mỹ.
Về phía Việt Nam, việc quân Pháp nhảy dù tái chiếm Điện
Biên Phủ không làm đảo lộn kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954
của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, ngay cả trên hướng Tây Bắc.
Trên các hướng đã được xác định, khối chủ lực vẫn mở các cuộc tiến công đúng
như kế hoạch gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại và bị động đối phó.
Tại Hội nghị phổ biến nhiệm vụ quân sự và kế hoạch tác
chiến Đông Xuân 1953-1954 diễn ra cùng thời điểm quân Pháp nhảy dù xuống Điện
Biên Phủ, Tổng Tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng, “Địch nhảy dù xuống
Điện Biên Phủ là để che chở cho Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp. Như vậy là
bị động phân tán lực lượng để đối phó với ta. Vô luận rồi đây, địch tình thay
đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta."
Các đòn tiến công chiến lược quan trọng của Việt Nam
trong Đông Xuân 1953-1954 đã buộc khối cơ động của địch phải phân tán đối phó
trên nhiều hướng, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân Việt Nam thực hiện
trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ với bí danh
Trần Đình, nhất trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy. Đại tướng
Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hoàng Văn Thái - Tham
mưu trưởng, Lê Liêm - Chủ nhiệm Chính trị, Đặng Kim Giang - Chủ nhiệm Cung cấp.
Với những nỗ lực cao nhất, Việt Nam đã dồn hết sức người,
sức của cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhiều tầng lớp nhân dân hăng hái lên
đường tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ như công nhân, nông dân, trí
thức, văn nghệ sỹ… Và đã có biết bao tấm gương hy sinh trên đường ra trận,
nhiều anh hùng quên mình xả thân cho cuộc kháng chiến.
Đầu tháng 3/1954, thời gian chuẩn bị mọi mặt cho cuộc
tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ với phương châm “đánh chắc, tiến
chắc" đã hoàn thành. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có tất cả 49 cứ điểm,
được chia làm ba phân khu. Trên chiến trường, ta mở ba đợt tiến công vào Điện
Biên Phủ.
Đợt một của chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn ngày
13/3/1954, với trận tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam thuộc vòng ngoài Phân khu Bắc
của tập đoàn cứ điểm. Đợt hai diễn ra ngày 30/3/1954, đánh vào phân khu trung
tâm. Đợt ba chiến dịch diễn ra ngày 1/5 và kết thúc ngày 7/5/1954, đánh chiếm
các cứ điểm phía Đông và tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp đã khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn,
sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đường lối kháng chiến toàn dân,
toàn diện, trường kỳ tự lực cánh sinh, đã phát huy cao độ truyền thống yêu
nước, ý chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đi vào lịch sử của dân tộc ta
như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa trong thế kỷ 20, và đi vào
lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô
dịch thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc.
Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân
1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã khẳng định sức mạnh to
lớn của nhân dân Việt Nam. Có thể nói, thực dân pháp và can thiệp Mỹ đã hoàn
toàn bất ngờ trước sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, trước việc “Việt
Minh" có đủ lương thực và vũ khí để chiến đấu liên tục trong suốt gần hai
tháng trên địa bàn hiểm trở, xa hậu cứ trước việc xuất hiện của trọng pháo trên
trận địa đỉnh núi…
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị cùng ký Hiệp
định Geneva chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược (1945-1954) ở Đông Dương, miền
Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Hiệp định Geneva đã tạo được cục diện
mới, tạo tiền đề và cơ sở pháp lý rất quan trọng để dân tộc Việt Nam tiến hành
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Điểm TTKHCN Xã