Bữa cơm đêm hôm ấy, chúng tôi cùng
ăn chung. Bác Hồ bảo không nên dùng nghi lễ, hãy để tất cả các đĩa thức ăn trên
bàn không cần phải đưa từng đĩa một. Bác nói: “Cái gì tôi thích thì tôi lấy,
cái gì anh thích thì anh lấy, như ở nhà mình”.
Bác Tukimin có nhiệm vụ xem xét, phục vụ lúc ăn uống cũng
được Người kéo vào và bảo ngồi cùng ăn.
Ăn xong, đột nhiên Bác Hồ yêu cầu tôi đưa Người đi dạo phố
mà không cần bảo vệ. Tôi được bỏ quân phục và tất cả phù hiệu.
Tất nhiên là tôi ngạc nhiên và tự hỏi: Tại sao người lại tin
cậy chúng tôi, những người mà Người chưa hề quen biết đến như thế?
Tôi nghĩ: Chắc là vì Người rất tin tưởng vào bản thân mình.
Nhưng tôi cũng cảm thấy sung sướng khi được Bác Hồ tin cậy. Đúng là khi được
nhận trách nhiệm và được tin cậy thì ai cũng rất sung sướng.
Chúng tôi đưa Bác Hồ đi xem những cái tốt đẹp của thành phố
Giacácta, và chúng tôi cũng không thấy thẹn khi đưa Người đi xem những cái chưa
tốt, vì tôi nghĩ phải chăng Người là một nhà cách mạng, một chiến sĩ, tất biết
rõ việc xây dựng phải khó khăn biết bao nhiêu, tất biết rõ nhân dân và yêu cầu
của nhân dân.
Lúc nhìn sông Gilirung, tôi xấu hổ khi thấy nhân dân tắm ở
đấy, và giặt quần áo cũng ở đấy. Trong thâm tâm tôi chỉ muốn cho vị khách quý
xem những cái tốt đẹp, nhưng lại gặp những sự thật đắng cay.
Hình như Người đoán được điều tôi đang suy nghĩ, Người liền
nói: “Thay đổi tình hình và xây dựng quả không thực hiện được trong thời gian
ngắn, không thể thay đổi tình hình trong một đêm như làm ảo thuật. Cần phải có tính
nhẫn nại cách mạng. Miễn là chúng ta không quên rằng cách mạng không chỉ để
giành độc lập chính trị mà còn phải nhằm mục đích và phải thu kết quả cho đời
sống nhân dân. Nhân dân phải được ăn nhiều hơn, mặc đẹp hơn, sống hạnh phúc
hơn. Nếu không, thì cách mạng không có ích gì”.
Đêm hôm ấy, một đêm đầy sao, tôi nói chuyện với vị lão thành
ấy về chiến tranh du kích, về sự dã man của quân thù, quyết tâm và hy sinh của
nhân dân, hoài bảo và lý tưởng chung của chúng tôi.
Đêm hôm ấy, ranh giới hai hàng rào ngăn cách đều bị xóa hết
đối với tôi. Tôi không còn cảm thấy Người là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người
Việt Nam nữa, mà chỉ như một chiến sĩ giản dị có thể xem như một người Cha, một
người chỉ huy và một người bạn, không còn là một người nước ngoài nữa.
Quả là những lý tưởng có thể đạt tới một xã hội công bằng và
phồn vinh có thể thắt chặt lòng người này với người khác. Chủng tộc hay dân tộc
không quan trọng, điều quan trọng là những lý tưởng. Bây giờ, tôi mới hiểu tại
sao trong những ngày sau đó, Bung Các nô và Bác Hồ lại có mối quan hệ với nhau
chặt chẽ, thoải mái và thân thiết đến thế.
Đêm chia tay ở Mê Đăng, tôi và bạn tôi được gọi lại, Người
nói: “Tôi cảm ơn tất cả các bạn, vì nhờ tất cả các bạn mà cuộc đi thăm của tôi
thành công. Tôi thực sự cảm thấy như giữa anh em trong nhà; mong rằng cuộc đấu
tranh của các bạn thành công. Để làm kỷ niệm, tôi tặng các bạn những vật này:
một tấm hình và huy hiệu chiến dịch Điện Biên Phủ, không phải mọi người đều
được huy hiệu này, mà chỉ những người thực sự tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ
mới có”.
Tôi đáp lại với Người rằng bảo vệ và phục vụ Người đối với
chúng tôi là một vinh dự, tôi đã học được nhiều. Tôi đã học được rằng: người ta
phải làm, phải nghĩ và phải sống như thế nào để được xứng đáng là người lãnh
đạo. Những điều tôi thu nhập được là rất quý báu.
Tôi là vệ sĩ của Bác Hồ, nhưng ngược lại chắc rằng Bác Hồ là
người che chở tôi, nếu như có xảy ra chuyện gì.
Trích
trong “120 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”