Năm 1946, lần đầu tiên tôi được
gặp Bác Hồ khi từ mặt trận
Nha Trang (Khánh Hòa) ra Bộ Tổng tham mưu ở Hà Nội để báo cáo tình hình chiến
đấu đồng thời xin chi viện vũ khí. Tôi cảm nhận thấy Bác giản dị nhưng vĩ đại.
Bác đã hỏi vè tình hình đời sống của nhân dân và bộ đội ở mặt trận Nha Trang và
Khu V. Trước khi về Bác dặn: “Sang xâm lược lần này, thực dân Pháp có nhiều cái
mạnh ban đầu, nhưng chúng là quân cướp nước nên có cái yếu về gốc rễ. Chính
quyền ta, bộ đối mới thành lập nên còn nhiều cái non yếu. Nếu ta vừa đánh giặc,
vừa khắc phục non yếu để bồi bổ cho mình ngày một mạnh, vừa làm cho toàn dân
một lòng quyết tâm chống giặc, làm cho nó bị đánh bằng mọi cách thì thắng lợi
chắc chắn về ta”. Chính đây là bài học vỡ lòng về chiến tranh nhân dân mà tôi
đã thu hoạch được trong lần gặp Bác đầu tiên.
Năm 1959, tôi vinh dự được làm
sĩ quan cận vệ cho Bác trong dịp Tổng thống Ấn độ Praxát sang thăm nước ta. Tôi
được ăn ngủ ngay tại Phủ Chủ tịch, luôn được đi bên Bác, đứng cạnh Bác. Trong
những ngày “có một không hai” trong cuộc đời mình, tôi thực sự được chứng kiến
sức làm việc kỳ diệu của Bác. Lịch làm việc rất sít sao, song đúng giờ nào việc
nấy. Bác rất chủ động trong giao tiếp, rất gần gũi với mọi người. Bác chăm sóc,
thể hiện sự quan tâm với các vị khác Ấn Độ mà không bao giờ quên thăm hỏi tình
hình của anh em phục vụ. Bác vì tất cả, không quên một ai.
Tháng 4-1966, trên cương vị Tư
lệnh pháo binh, tôi lại được đón Bác và các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng,
Nhà nước và quân đội đi xem bắn thử những loại pháo phản lực do ta cải tiến sản
xuất và do Liên Xô viện trợ. Nhìn khẩu A12 ghếch nòng trên bệ, chằng giữ bằng
dây thừng to với cái mũ bộ đội chụp điện để chống mưa, Bác nói vui:
- Cái này là hạng nội hóa?
- Dạ, tôi thưa với Bác.
Bác cười hài lòng và nhìn các
đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Bác ngợi khen tinh thần dám nghĩ, dám làm
để phục vụ kịp thời cho chiến trường của cán bộ, chiến sĩ ta. Bác chăm chú lắng
nghe giới thiệu khái quát về tác dụng của từng loại, cách thức tổ chức một khẩu
đội, sự phân công hiệp đồng giữa các pháo thủ khi hành quân cũng như khi bắn.
Tôi nói về kỹ thuật pháo binh, dùng nhiều từ ngữ chưa thông dụng, khiến Bác
phải hỏi lại, Người uốn nắn:
- Bất cứ lúc nào, ngôn ngữ quân
sự cũng phải ngắn gọn, dễ hiểu.
Trước khi Bác ra về, tôi báo
cáo thêm với Bác là những đội bắn trình diễn sáng nay đều thuộc các đơn vị sắp
lên đường làm nhiệm vụ. Bác căn dặn:
- Pháo đạn nặng nề sẽ gặp nhiều
khó khăn. Phải động viên anh em dù khó khăn mấy cũng phải cương quyết vượt qua
để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Tháng 4-1967, Bác Hồ gửi thư
khen ngợi bộ đội pháo binh, ngay từ dòng đầu tiên Bác viết: “Pháo binh ta có
truyền thống oanh liệt, chân đồng vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng”. Cuối năm
1967, Quân ủy Trung ương mở hội nghị cán bộ cao cấp để phổ biến nhiệm vụ chiến
lược xuân Mậu Thân (1968), Bác đã đến dự. Sự có mặt của Bác ở Hội nghị này như
thôi thúc, giục giã mọi người trước khi bước vào trận chiến đấu mới. Đồng chí
Bí thư Quân ủy Trung ương lần lượt giới thiệu với Bác một số cán bộ chủ trì của
các quân khu, quân chủng, binh chủng.
Vinh dự cho binh chủng Pháo
binh nói chung và cho chúng tôi nói riêng, sau lời giới thiệu của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, Thiếu tướng Tạ Xuân Thu, Chính ủy pháo binh, và tôi – Tư lệnh pháo
binh, được đi lên trước bàn Đoàn Chủ tịch hội nghị để Bác Hồ bắt tay. Bác cầm tay từng người, bàn
tay Bác làm ấm cả lòng tôi. Vừa sung sướng, vừa cảm động, tôi rơm rớm nước mắt.
Tôi có ngờ đâu, đây lại là lần cuối cùng được gặp Bác. Ngày Bác ra đi,
2-9-1969, tôi đã cùng các đồng chí trong Thường vụ Quân khu ủy Trị Thiên Huế
làm lễ tưởng niệm Bác trong căn cứ chỉ huy A Sầu, A Lưới.
Hoàng Hiệp (sưu tầm)