Nhân dịp Việt Nam có những lô vải
thiều Lục Ngạn, Bắc Giang đầu tiên được xuất khẩu sang Nhật Bản với chỉ dẫn địa
lý đã được bảo hộ tại thị trường này, một bước tiến trong công tác phát triển
tài sản trí tuệ, Báo Khoa học và phát triển trao đổi với TS Đinh Hữu Phí,
Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) xung quanh vấn đề này.
Báo Khoa học và phát triển: Thưa ông, điều gì khiến bảo hộ chỉ dẫn
địa lý trở thành quan trọng trong việc nâng cao giá trị của chuỗi nông sản chủ
lực ở Việt Nam?
Ông Đinh Hữu Phí: Nhìn vào bản chất vấn đề
thì chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để phân biệt các sản phẩm có nguồn gốc từ
khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Để được bảo hộ chỉ dẫn
địa lý thì các sản phẩm phải có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính mà chủ yếu
là do điều kiện địa lý mang lại. Chính vì yếu tố này, các sản phẩm được bảo hộ
chỉ dẫn địa lý sẽ dễ dàng nổi bật hơn, thậm chí có giá trị hơn so với các sản
phẩm tương tự trên thị trường. Mặt khác, việc áp dụng bảo hộ chỉ dẫn địa lý còn
giúp ngăn ngừa và chống lại các hành vi sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém
chất lượng, làm mất đi giá trị và danh tiếng của sản phẩm mang chỉ dẫn địa
lý.
Chúng ta
đều thấy, Việt Nam là một nước nông nghiệp và hầu như địa phương nào cũng có
những sản phẩm mang đặc trưng riêng và tạo nên thế mạnh của địa phương. Do hầu
hết các sản phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý là nông sản nên việc bảo hộ còn có
ý nghĩa kinh tế quan trọng, góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn.
Hiệu quả
của bảo hộ chỉ dẫn địa lý đã được chứng thực trên thực tế, đó là giá trị và uy
tín của nhiều sản phẩm gia tăng đáng kể, ví dụ mật ong bạc hà Mèo Vạc sau khi
bảo hộ chỉ dẫn địa lý, kiểm soát nguồn gốc, chất lượng, quảng bá sản phẩm đã
tăng giá gần gấp đôi, tương tự nước mắm Phú Quốc tăng giá từ 30-50%, bưởi Phúc
Trạch tăng từ 30-35%, cam Vinh tăng hơn 50% sau khi được bảo hộ chỉ dẫn địa lý.
Đáng chú ý là một số sản phẩm gắn chỉ dẫn địa lý cũng đã được xuất khẩu, được
bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài như thanh long Bình Thuận, vải thiều Lục
Ngạn... Tôi cho rằng, đây cũng là động lực cho người nông dân thúc đẩy sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng quy mô thương mại. Do vậy, chỉ dẫn
địa lý là một công cụ hữu hiệu để bảo hộ các đặc sản, nông sản chủ lực của nước
ta.
TS Đinh
Hữu Phí, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ.
Vậy ông đánh giá như thế nào về việc Việt Nam triển khai thi hành
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA)? Nông sản Việt
Nam sẽ được hưởng lợi gì từ cơ chế bảo hộ theo Hiệp định?
Chúng ta
có thể thấy là điểm đặc biệt của cam kết về chỉ dẫn địa lý theo Hiệp định EVFTA
là ngoài cam kết về các tiêu chí liên quan đến hệ thống đăng ký chỉ dẫn địa lý,
các bên còn cam kết bảo hộ cho nhau một danh mục các chỉ dẫn địa lý (169 chỉ
dẫn địa lý của EU được bảo hộ tại Việt Nam và 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam
được bảo hộ tại EU). Mức độ bảo hộ dành cho các chỉ dẫn địa lý này tương ứng
với mức độ bảo hộ chỉ dành cho rượu vang và rượu mạnh trong Hiệp định về các khía
cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) cũng
như Luật SHTT hiện hành.
Do đó,
việc ký kết và thực thi Hiệp định EVFTA sẽ mang lại cơ hội lớn cho nhiều doanh
nghiệp Việt Nam khi 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam (phần lớn là nông sản) được
bảo hộ tự động tại EU – thị trường xuất khẩu vô cùng quan trọng với 28 quốc gia
thành viên. Việc này không chỉ bảo đảm quyền đối với các chỉ dẫn địa lý dùng
cho nông sản của ta vốn đã có mặt trên thị trường này từ lâu như nước mắm Phú
Quốc, cà phê Buôn Ma Thuột mà còn mở ra cơ hội tiếp cận thị trường cho các đặc
sản khác như chè Mộc Châu, vải thiều Thanh Hà, cam Cao Phong, chuối Đại
Hoàng...
Vải thiều
tươi Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản được thị trường đón nhận. Ảnh:
congthuong.vn
Hiện nay Cục SHTT đang phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT. Vậy trong số các sửa đổi này
có liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý không, thưa ông?
So với
hai lần sửa đổi vào các năm 2009 và 2019 thì lần sửa đổi này của Luật SHTT bao
hàm một phạm vi khá rộng, với khoảng 90 điều của 14 chương; trong số này có 10
điều có nội dung liên quan đến chỉ dẫn địa lý. Các sửa đổi về chỉ dẫn địa lý
không mang tính chất thay đổi chính sách mà chủ yếu là quy định bổ sung hoặc
làm rõ hơn một số vấn đề, ví dụ quy định cụ thể hơn về việc bảo hộ chỉ dẫn địa
lý đồng âm, về quản lý chỉ dẫn địa lý, về quyền của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa
lý...
Ông có thể giải thích rõ hơn về các nội dung sửa đổi này, ví dụ
vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm và quản lý chỉ dẫn địa lý?
Đối với
nội dung chỉ dẫn địa lý đồng âm, các chỉ dẫn địa lý này được hiểu là các chỉ
dẫn địa lý giống nhau về cách viết hoặc phát âm dùng cho các sản phẩm có nguồn
gốc địa lý khác nhau, thường là ở các quốc gia khác nhau (ví dụ “Rioja” là tên
một vùng ở Tây Ban Nha và Argentina được sử dụng cho sản phẩm “rượu vang”
được sản xuất ở cả hai quốc gia này). Hiệp định TRIPS có quy định về việc bảo
hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm dùng cho rượu vang. Luật SHTT hiện hành không loại
trừ khả năng bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm tuy nhiên chưa có quy định và hướng
dẫn cụ thể. Do đó, việc bổ sung quy định để làm rõ các điều kiện bảo hộ chỉ dẫn
địa lý đồng âm là cần thiết để đáp ứng nhu cầu bảo hộ chỉ dẫn địa lý này trong
tương lai.
Nếu nhìn
rộng ra thì chúng ta có thể thấy, Luật SHTT hiện hành quy định chủ sở hữu chỉ
dẫn địa lý Việt Nam là Nhà nước; quyền quản lý chỉ dẫn địa lý thuộc về UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có chỉ dẫn địa lý hoặc cơ quan, tổ
chức được UBND tỉnh trao quyền với những điều kiện nhất định. Tuy nhiên đây
chưa hẳn là một sự phân định tối ưu bởi trên thực tế, vẫn còn tồn tại một số
vướng mắc trong quản lý chỉ dẫn địa lý ở các địa phương như việc xác định đâu
là vai trò quản lý nhà nước, đâu là vai trò quản lý tài sản khi cơ quan quản lý
nhà nước là tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý; xác định các nội dung cần thực hiện
để quản lý việc sử dụng chỉ dẫn địa lý … Để bảo đảm sự thống nhất trong quản lý
nhà nước về chỉ dẫn địa lý, bảo đảm quyền lợi của cộng đồng các nhà sản xuất
sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý ở địa phương, thúc đẩy phát triển chỉ dẫn địa lý,
các nội dung này cần được hướng dẫn cụ thể ở một văn bản dưới Luật, do vậy Dự
thảo Luật bổ sung quy định Chính phủ hướng dẫn chi tiết về việc thực hiện quyền
quản lý chỉ dẫn địa lý.
Mặc dù
nội dung sửa đổi không nhiều, nhưng tôi tin rằng các quy định sửa đổi, bổ sung
liên quan đến chỉ dẫn địa lý sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật
về SHTT, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi hơn để thúc đẩy hoạt động sản
xuất, kinh doanh sản phẩm (chủ yếu là nông sản) mang chỉ dẫn địa lý nói riêng
và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung.
Để quy định sửa đổi về chỉ dẫn địa lý khả thi và đi vào đời sống,
qua đó góp phần nâng cao giá trị nông sản thì chúng ta cần những điều kiện gì?
Theo kế
hoạch, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT (Luật sửa đổi) sẽ được
trình xin ý kiến Quốc hội tại kỳ họp thứ II Quốc hội khóa XV (tháng 10/2021).
Trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung được Quốc hội thông qua (dự kiến vào kỳ họp
tháng 5/2022), các cơ quan có thẩm quyền sẽ tiếp tục xây dựng các văn bản hướng
dẫn Luật (Nghị định, Thông tư). Bên cạnh đó, để các quy định của Luật SHTT,
trong đó có quy định về chỉ dẫn địa lý, thực sự đi vào cuộc sống, công tác
tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn về các chính sách, quy định mới sẽ cần
được triển khai rộng rãi đến các nhóm chủ thể liên quan, đặc biệt là các cơ
quan quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực và ở các địa phương, các doanh
nghiệp, hiệp hội ngành hàng.
Tính đến
hết năm 2020, Việt Nam có 94 chỉ dẫn địa lý được bảo hộ trong nước, con số này
đã tăng đáng kể so với năm 2012 (31 chỉ dẫn địa lý) khi chúng ta mới bắt đầu
đàm phán Hiệp định EVFTA.
Tuy
nhiên, điều tôi muốn nhấn mạnh là trong thời gian tới, chúng ta không chỉ gia
tăng số lượng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ mà quan trọng hơn, các hoạt động liên
quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý cần đi vào chiều sâu theo hướng nâng cao hiệu
quả công tác quản lý, phát triển chỉ dẫn địa lý sau bảo hộ, đặc biệt là việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống kiểm soát chất lượng đối với sản phẩm mang chỉ
dẫn địa lý. Có như vậy thì nông sản Việt Nam mới giữ vững được chất lượng, uy
tín ở thị trường trong nước, dần dần vươn ra và có chỗ đứng trên thị trường
nước ngoài.
Cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!
Nguồn:
Cục Sở hữu Trí tuệ