Phong cách và tác phong
là hai khái niệm thường đi đôi với nhau. Phong cách hàm nghĩa rộng hơn, thể
hiện những cung cách, cách thức hành xử của một người hay một nhóm người, được
thể hiện nhất quán trong lao động, học tập, sinh hoạt, tạo nên cái riêng của
họ, phân biệt họ với những người khác. Phong cách hình thành trên cơ sở những
yếu tố về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tài năng, sở trường, khí chất… Tác phong
hàm nghĩa cụ thể hơn so với phong cách. Có thể hiểu tác phong là sự thể hiện ra
bên ngoài của phong cách, tạothành lề lối làm việc, thói quen ứng xử, nề nếp
sinh hoạt...Sau đây, trong chuyên đề chúng ta sẽ sử dụng nhất quán khái niệm
“phong cách Hồ Chí Minh” với cả hai hàm nghĩa của “phong cách” và “tác phong”;
sử dụng khái niệm “phong cách làm việc” và “phong cách lãnh đạo” để nói về
phong cách, tác phong công tác trong công việc và trong lãnh đạo, điều hành đất
nước.
Phong cách làm
việc và phong cách lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn riêng của
Người, gắn liền với tư tưởng, đạo đức, lối sống, mục đích sống của Người; vừa
dân tộc vừa hiện đại, vừa khoa học vừa cách mạng, vừa cao cả vừa thiết thực;
thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể
nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức, thẩm mỹ; là tấm gương sáng cho mọi
người, mọi thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng hợp thành chỉnh
thể phong cách của Người, được hình thành từ rất sớm. Khi còn nhỏ, Hồ Chí Minh
sớm tiếp nhận một nền giáo dục Nho học, từ đó đã định hình một phong cách nền
nếp, ngăn nắp, cần mẫn. Những năm tháng bôn ba ở nước ngoài, lăn lộn với cuộc
sống của người lao động, hòa mình trong phong trào công nhân đã hình thành ở
Người một phong cách làm việc khoa học, quý trọng thời gian và sắp xếp công
việc hàng ngày một cách cụ thể, hợp lý. Những trải nghiệm cùng với những tác
động và ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa phương Đông và phương Tây mà người đã
tiếp nhận trong những năm tháng hoạt động cách mạng đã hình thành trong con
người Chủ tịch Hồ Chí Minh một phong cách làm việc, phong cách lãnh đạođặc
trưng của Người, được thể hiện đậm nét và sâu sắc trong cách giải quyết công
việc hàng ngày trên cương vị là người đứng đầu Đảng và Nhà nước sau này.
Có thể nói một cách rất khái
quát về phong cách làm việc Hồ Chí Minh, đó là lề lối, cung cách, cách thức làm
việc dân chủ, quần chúng, khoa học, nêu gương, thể hiện trong hoạt động lãnh
đạo của Người với những đặc điểm quan trọng như: phong cách dân chủ, quyết
đoán, sâu sát, khéo dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng, khoa học, năng
động, sáng tạo.
Phong cách làm việc Hồ Chí
Minh là những bài học quý báu đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là
khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tích cực triển khai thực hiện Nghị
quyết Trung ương số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” gắn với
thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Phần thứ nhất
XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC
CỦA CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn đề cao vai trò của đội ngũ cán bộ.Người coi “cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”[1], “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy”2và đi
đến kết luận: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”4.
Vì thế, Người rất quan tâm đến xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng, trong đó có xây dựng, rèn luyện phong cách công tác. Học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng phong cách làm việc
của người cán bộ, đảng viên, cần tập trung thực hiện các nội dung sau:
1. Phong cách dân chủ, quần chúng
Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ” là phong cách
hàng đầu mà người cán bộ cần phải có. Người chỉ rõ: Đảng ta thực hiện nguyên
tắc “tập trung dân chủ” và “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự
do”5. Vì thế, người cán bộ, đảng viên phải tạo ra được không khí
dân chủ thực sự trong nội bộ bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho cán
bộ, đảng viên, quần chúng, cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Được
như vậy thì cấp dưới và quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến, “học hỏi sáng
kiến của quần chúng để lãnh đạo quần chúng”6. Những sáng kiến đó được coi trọng, được khen ngợi thì những
người có sáng kiến càng thêm hăng hái làm việc. Phong cách dân chủ của người
cán bộ không chỉ khơi nguồn sáng tạo, phát huy tinh thần cống hiến của cấp dưới
và quần chúng nhân dân mà còn làm cho tổ chức cơ quan, đoàn thể thêm gắn bó.
Người có phong
cách dân chủ là thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách”,đó cũng là cách “để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người”.
Cán bộ không bao giờ được “độc tôn chân lý”, phải thành thực lắng nghe ý kiến
phê bình của cấp dưới và nghiêm túc sửa mình với tinh thần cầu thị. Làm như vậy
thì chắc chắn người cán bộ sẽ được nhân dân yêu mến, cấp dưới nể trọng, sẵn
sàng đóng góp sáng kiến.
Phong cách dân chủ theo
tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến
sự tập trung chứ không phải dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức.Một trong
những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt Đảng là “tập trung dân chủ”.
Nói về sức mạnh của dân chủ, Hồ Chí Minh từng nói: “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải
quyết mọi khó khăn”1. Nếu người cán bộ không có tác phong dân chủ hoặc “Miệng thì
nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ”2 là họ
tự tước đi của mình vũ khí hữu hiệu nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Khi đó, dù có
““đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”3.
Phong cách dân chủ yêu
cầu người cán bộ, đảng viên phải sâu sát quần chúng, chú ý tìm hiểu tâm tư
nguyện vọng của quần chúng, quan tâm đến mọi mặt đời sống nhân dân; tin yêu và
tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính
đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và sửa chữa
khuyết điểm của mình.
Gắn bó mật thiết với
phong cách dân chủ là phong cách quần chúng. Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ
phải có phong cách làm việc quần chúng, xuất phát từ vấn đề có tính nguyên tắc
về vai trò của quần chúng nhân dân: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm
lần dân liệu cũng xong”. Phong cách quần chúngyêu cầu người cán bộ phải gần gũi
quần chúng, lắng nghe và thấu hiểu mong muốn của quần chúng. Người cán bộ phải
thường xuyên đi xuống cơ sở mà mình phụ trách, tìm hiểu thực trạng đời sống,
tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Người khẳng định: nếu “cách xa dân chúng,
không liên lạc chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất
định thất bại”1.
Phong cách quần chúng
không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng”, vì theo Hồ Chí Minh, “Trong dân
chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau”2. Người
cán bộ phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ giác ngộ, dân trí của
quần chúng, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ phận quần
chúng “chậm tiến”, vừa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.
Phong cách quần chúng
Hồ Chí Minh là phải biết cách tổ chức phong trào phù hợp với trình độ, năng lực
thực tế của quần chúng, không chủ quan, duy ý chí, áp đặt thực tiễn theo ý
mình. Theo Người, “nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột vào
cho quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”… Ai cũng đóng giầy theo
chân. Không ai đóng chân theo giầy”3. Người khẳng định: “cách làm
việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo, v.v. của
chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”4, “dựa vào lực lượng quần chúng”5.
Phong cách quần chúng
của cán bộ, đảng viên thể hiện rõ trong các thói quen sinh hoạt hàng ngày.
Người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình hưởng
điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Người cảnh tỉnh những suy nghĩ lệch
lạc trong cán bộ, rằng “phải ăn mặc bảnh mới
giữ được oai tín, giữ được thể diện”6. Khi người cán bộ thấm nhuần
tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân dân yêu thương, tin cậy, ủng
hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công.
2. Phong cách khoa học
Phong cách làm việc
khoa học đòi hỏi khi xem xét và quyết định mọi việc đều phải điều tra, nghiên
cứu, phân tích toàn diện, phải tôn trọng quy trình ra quyết định, tranh thủ ý kiến
của tập thể lãnh đạo và quần chúng. Người chỉ rõ: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt
câu hỏi: vì sao có vấn đề này? xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy
tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”.
Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận rồi mới quyết định và thực hiện
đến nơi, đến chốn. Đặc biệt, đối với những vấn đề mới, phức tạp có ảnh hưởng
lớn tới tổ chức đảng, đơn vị, bộ đội và nhân dân, cần phải làm thử, làm điểm
trước khi quyết định. Tuyệt đối không ra quyết định khi chưa có thông tin đầy
đủ, chưa có phương án tính toán hiệu quả. Tránh chủ quan duy ý chí, che giấu
khuyết điểm để chạy theo thành tích.
Phong cách làm việc
khoa học của Hồ Chí Minh là làm việc phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng,
thiết thực. Muốn có kế hoạch khoa học thì người cán bộ phải “Việc chính, việc
gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm
việc ấy”1. Hết sức tránh chuyện vạch ra “Chương trình công tác thì quá rộng mà
kém thiết thực”2 và căn bệnh “đánh trống bỏ dùi” gây lãng phí
tiền của, nhân lực và thời gian của nhân dân.
Phong cách làm việc
khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng
lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Người
từng nói: “Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ vứt
đi, là người ngu dại”3. Người cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng
cũng phải biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung
giải quyết dứt điểm từng công việc;không ôm đồm, làm quá nhiều việc, những
nhiều việc không dứt điểm, không hiệu quả. Người giải thích: “Đích nghĩa là nhằm vào đó mà bắn.
Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn trúng đích nào”7.
Phong cách làm việc
khoa học yêu cầu người cán bộ giải quyết công việc trên cơ sở dữ liệu khách
quan, dựa trên nền tảng thực tế để lựa chọn ra phương án khả thi nhất và phương
án ấy phải đặt trong tổng thể chiến lược lâu dài. Không được rơi vào “Bệnh cận thị - không trông xa thấy
rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”8.
Người cán bộ không được vì cái lợi nhỏ trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích to
lớn, lâu dài. Tầm nhìn - đó chính là phẩm chất của người có tư duy khoa
học và có cách làm việc khoa học.
Theo Hồ Chí Minh, phong
cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ phải có cách đánh giá đúng người,
đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý;lại phải biết cách kiểm tra, giám sát
công việc và cấp dưới một cách hiệu quả, qua đó thấy được việc thi hành đường
lối, nghị quyết của Đảng như thế nào và cần điều chỉnh cái gì…Người nói: “tình
hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay
đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng
hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không
theo kịp tình thế”1. Kiểm tra còn có tác dụng phân loại, đánh giá cán bộ, vì “Có
kiểm tra… mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp
đỡ kịp thời”2. Cán bộ lãnh đạo làm việc khoa học, chặt chẽ thì cấp dưới
không thể “qua mặt”.
Phong cách khoa học đòi
hỏi người cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút ra kinh nghiệm cho lần sau và
cho người khác. Hồ Chí Minh viết: “công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất
bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết
luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa
phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”1.
3. Phong cách nêu gương
Theo Hồ Chí Minh, mỗi
cán bộ, đảng viên đều phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể
hiện thường xuyên về mọi mặt; phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói
phải đi đôi với làm. Người yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên đều phải nêu gương
về đạo đức. Trước hết, mình phải tự làm gương, cán bộ “gắng làm gương trong anh
em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân”2.
Về vai trò của nêu
gương, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải ta
cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức.Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước”3.Tự mình phải chính trước mới giúp người khác chính.Mình
không chính, mà muốn người khác chính là vô lý.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cách mạng chủ yếu,
là nhân cách của con người. Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ,
Thu, Đông.
Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam,
Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm,
Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành
trời,
Thiếu một phương, thì không
thành đất.
Thiếu một đức thì không thành
người”4.
Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư là một nội dung cơ bản không thể thiếu trong phong cách làm việc
và nhân cách của những người lãnh đạo, quản lý. Trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn
tất cả các cán bộ, đảng viên: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, Thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”5.
Theo Hồ Chí Minh, kẻ
thù của lòng chí công vô tư chính là chủ nghĩa cá nhân, chỉ thấy lợi ích riêng
của mình, không thấy lợi ích chung của tập thể, chỉ muốn tự tư tự lợi. Phải
khắc phục chủ nghĩa cá nhân có trong mỗi người cán bộ đảng viên thì mới có thể
có phong cách làm việc cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đó là cơ sở để
hình thành hành vi đạo đức đúng đắn, một tâm hồn hướng thượng: giàu sang không
thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục1.
Cần nêu gương trên ba
mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đối với mình phải không tự cao tự
đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát
triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; phải tự phê bình mình như rửa mặt
hằng ngày. Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết,
thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc, dù trong
hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, đặtviệc công lên
trên, lên trước việc tư.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm.Nói đi đôi với làm
không chỉ là một chuẩn mực trong đạo đức truyền thống mà còn là chuẩn mực đạo
đức công vụ tối thiểu. Với cán bộ, đảng viên, sự thống nhất chặt chẽ giữa nói
và làm, giữa đạo đức và nêu gương đạo đức cần đạt tới sự nhất quán trong công
việc và trong đời sống riêng, giữa đạo đức người lãnh đạo và đạo đức đời
thường. Địa vị càng cao, uy tín càng lớn, càng phải ra sức hoàn thiện về đạo
đức, thống nhất giữa nói và làm. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm
kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi
với làm để quần chúng noi theo.
Việc nói đi đôi với làm
mang lại cho quần chúng lòng tin và sự tôn trọng đối với người cán bộ, do đó,
người cán bộ dễ dàng thực thi quyền lãnh đạo của mình. Người phê phán những cán
bộ “Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác.
Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”2. Nhân dân không bao giờ tin cậy những cán bộ nói mà không
làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đàng làm một nẻo. Muốn rèn luyện
được phong cách nói đi đôi với làm, người cán bộ phải thường xuyên tự kiểm
điểm, soi xét chính mình, đồng thời phải khuyến khích cấp dưới và quần chúng
nhận xét, phê bình, góp ý cho mình, nhắc nhở mình về những điều mình đã hứa.
Người cán bộ cũng phải biết tránh căn bệnh hình thức, bệnh “hữu danh, vô thực”,
chạy theo những thứ hào nhoáng bên ngoài.
Trong gia đình, cha mẹ
phải là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương đối với các em. Trong nhà
trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trò. Trong cơ quan, tổ chức thì
cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người
khác. Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm tự
tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng, làm tấm gương giúp
nhân dân nhìn vào đó mà noi theo, qua đó mà làm tăng thêm những điều đúng, điều
thiện, chống lại thói hư, tật xấu.
Trong các nội dung nêu
gương, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nêu gương về tinh thần phục vụ nhân
dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm phục vụ nhân dân từ một triết lý sâu xa
rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ra mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra,
nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Vì vậy mà cán bộ, đảng viên phải
xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước
dân cả về lời nói và việc làm.
Để giáo dục bằng nêu
gương đạt kết quả cao, Hồ Chí Minh chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc tốt
để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng
Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”1. Người khẳng định: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm.Ở đâu cũng
có.Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”2. Tháng 6-1968, Người
chỉ đạo xuất bản sách “Người tốt, việc tốt” để mọi người học tập, làm theo, lan
tỏa cái tốt, cái đẹp trong xã hội.
Phần thứ hai
XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO
CỦA
NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU THEO TƯ TƯỞNG,
ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH
Trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều có trách nhiệm tổ chức, lãnh đạo quần
chúng, dẫn dắt quần chúng nhân dân đi theo Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Khi Đảng cầm quyền, đảng viên được tín nhiệm và sắp xếp tham gia
công tác lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị. Trong các tổ chức đảng, chính
quyền, đoàn thể, doanh nghiệp nhà nước, đa số người đứng đầu là đảng viên. Vì
vậy, phong cách của người lãnh đạo, người đứng đầu có vai trò quan trọng trong
việc thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, trong kết quả triển khai thực
hiện nhiệm vụ.
Phong cách lãnh đạo là
tổng hợp những phương pháp, biện pháp, cách thức riêng, tiêu biểu mà người lãnh
đạo sử dụng hằng ngày để thực hiện nhiệm vụ của mình. Phong cách được quy định
bởi chức năng, nhiệm vụ, phẩm chất, tri thức, điều kiện chính trị và điều kiện
sống của người lãnh đạo.Phong cách lãnh đạo là khái niệm rộng hơn khái niệm
phương pháp, cách thức, biện pháp. Phong cách lãnh đạo là cái chung, biểu hiện
thông qua các phương pháp, cách thức và biện pháp, đồng thời phản ánh các phẩm
chất bên trong của con người, phản ánh tư tưởng, đạo đức, năng lực, tính cách,
sở trường của người lãnh đạo. Có một số yêu cầu trong phong cách lãnh đạo mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh hay nhắc tới, đó là: phong cách dân chủ, nhưng quyết đoán,
lãnh đạo sâu sát, khéo dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng, khoa học,
năng động, sáng tạo.
1. Phong cách dân chủ, nhưng quyết đoán
Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu cán bộ lãnh đạo phải “gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần
chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ
thống.Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, làm nó thành ý kiến
của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó.Đồng thời
nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không.Rồi
lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những
khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành.
Cứ như thế mãi thì lần sau
chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước.
Đó là cách lãnh đạo cực kỳ
tốt”1.
Trong công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, cải cách tổ chức, bộ máy nhà nước và nhiều công việc
khác, cần phải thực hành cách liên kết sự lãnh đạo với quần chúng và liên kết
chính sách chung với sự chỉ đạo riêng, tức là vận dụng quan điểm, đường lối
chung phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.Theo Người, như vậy mới thật là biết
lãnh đạo, quản lý.
Phong cách lãnh đạo dân
chủ thì phải dựa vào quần chúng; là cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu
không được quan liêu, hách dịch, coi thường quần chúng nhân dân. Phải biết đời
sống thực của nhân dân như thế nào, khả năng thực của nhân dân ra sao? Họ đang
nghĩ và đang mong muốn những gì? Mỗi lời nói, mỗi việc làm của người cán bộ
phải phù hợp với quần chúng, phản ánh đúng được khát vọng của quần chúng. Cán
bộ phải biết được những băn khoăn trăn trở của dân để kịp thời uốn nắn và tháo
gỡ cùng dân.
Người phê bình cách
lãnh đạo của một số cán bộ không dân chủ, dẫn đến tình trạng người có ý kiến
không dám nói, người muốn phê bình không dám phê bình, làm cho cấp trên cấp
dưới cách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau, không còn sáng kiến,
không còn hăng hái trong khi làm việc. Người chỉ rõ: “Người lãnh đạo muốn biết
rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu,
không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế
chẳng những không phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ
thật thà trong Đảng.
Nếu cán bộ không nói
năng, không đề ý kiến, không phê bình, thậm chí tâng bốc mình, thế là một hiện
tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ
sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở
nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói, do uất ức mà hóa ra oán
ghét, chán nản”.
Người đòi hỏi phải có
phong cách làm việc thực sự dân chủ chứ không phải giả tạo, hình thức để che
lấp ý đồ xấu của cá nhân. Bởi vì mọi sự giả tạo đều làm suy yếu, thậm chí phá
vỡ tập thể, mọi thói hình thức chủ nghĩa sớm muộn sẽ làm xói mòn, thậm chí
triệt tiêu dân chủ.
Cán bộ lãnh đạo, nhất
là những người đứng đầu, là người có trọng trách trong một tập thể, vừa phải
thực hành dân chủ, lắng nghe ý kiến của tập thể, đồng thời, phải quyết đoán,
nhận thức đầy đủ trách nhiệm và dám ra quyết định, dám làm, dám chịu trách
nhiệm. Đây cũng chính là việc thực hiện nghiêm nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách”.
Theo Hồ Chí Minh, một
người dù tài giỏi đến đâu cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề,
cũng không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã hội.
Cho nên, cần phải có cách làm việc tập thể để phát huy được trí tuệ của tập
thể, của đông đảo quần chúng nhân dân nhằm hoàn thành sự nghiệp của một tập
thể, một đơn vị hay địa phương mà nếu chỉ riêng người cán bộ lãnh đạo, quản lý
thì không làm nổi. Tập thể lãnh đạo là dân chủ.
Cá nhân phụ trách là
nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, người quản lý. Có ý thức tập thể cao,
tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập thể,
phát huy trí tuệ tập thể, nhưng không có tính quyết đoán, không dám chịu trách
nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có những quyết định kịp thời, đáp
ứng yêu cầu và công việc cũng không thể tiến triển được. Chủ tịch Hồ Chí Minh
lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý rằng: “Những việc bình thường, một người có
thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết đi. Những việc
quan trọng mới cần tập thể quyết định”1.
Theo Hồ Chí Minh, trách
nhiệm của người đứng đầu phải được đề cao, đôi khi mang tính quyết định đến
hiệu quả công việc. Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đúng
đắn là phải kết hợp thống nhất giữa cách làm việc dân chủ, tập thể với tính
quyết đoán, dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, kịp thời đưa ra những
quyết định đúng. Trong những thời điểm quyết định, người lãnh đạo, quản lý phải
dám nghĩ, dám làm, dám quyết… điều đó liên quan trực tiếp đến việc tận dụng
được thời cơ. Người từngdạy: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí.Gặp thời một tốt cũng
thành công”2.
Kết hợp tập thể lãnh
đạo với cá nhân phụ trách, thực hiện trách nhiệm của người lãnh đạo, người đứng
đầu để khắc phục những hiện tượng coi thường tập thể, hoặc ngược lại, dựa dẫm,
ỷ lại vào tập thể, không dám quyết đoán, không nêu cao trách nhiệm cá nhân… làm
trì trệ, suy yếu năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý của người cán bộ lãnh đạo.
2. Phong cách lãnh đạo sâu sát
Trong thực tiễn, Hồ Chí
Minh là tấm gương sáng về phong cách lãnh đạo sâu sát. Theo tài liệu thống kê
của Bảo tàng Hồ Chí Minh, chỉ tính trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc (1955-1965), không quản tuổi cao, công việc bề bộn, Người đã thực hiện
hơn 700 lượt đi thăm các địa phương, công trường, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị
bộ đội…, từ miền núi đến hải đảo, để thăm hỏi chiến sĩ và đồng bào, xem xét
tình hình, kiểm tra công việc. Tính ra mỗi năm, có hơn 60 lượt Người đi xuống
cơ sở, mỗi tháng có khoảng 6 lần Người gặp gỡ quần chúng.Ngoài ra, hằng ngày
qua đọc báo, đọc thư của nhân dân gửi lên, thấy có những ý kiến hay, cần tiếp
thu, những việc gấp cần giải quyết, Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại,
chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm, yêu cầu nghiên cứu và giải quyết.
Lãnh đạo sâu sát sẽ
nâng cao được tính khách quan, minh bạch, tăng cường được công tác kiểm tra,
giám sát, từ đó kiểm soát tốt hơn đối với việc thực thi quyền lực, kiểm tra,
giám sát chặt chẽviệc sử dụng tài sản của Nhà nước, của nhân dân, góp phần
phòng chống tham nhũng có hiệu quả. Hồ Chí Minh yêu cầu dựa vào quần chúng nhân
dân để giám sát, kiểm tra, nhằm loại trừ các hành vi trục lợi, ăn cắp, tham ô,
đục khoét, biến của công thành của riêng…
Theo Hồ Chí Minh, sau
khi nghị quyết đã được ban hành, phải tổ chức tốt việc thực hiện để nghị quyết
đi vào cuộc sống. Điều đó gắn liền với công việc kiểm tra, giám sát. Muốn tốt,
“phải đi tận nơi, xem tận chỗ”. Theo Người, sở dĩ sự thật còn bị bưng bít vì sự
kiểm tra, giám sát của các ngành, các cấp, không nghiêm túc, chưa chặt chẽ.
Sau kiểm tra, giám sát,
thì cái sai cần khắc phục, sửa chữa ngay và cái đúng, cái tốt phải được động
viên khen thưởng, kịp thời, vì khen thưởng đúng người, đúng việc, đúng lúc sẽ
động viên, giáo dục, thúc đẩy người lao động hăng say làm việc. Người yêu cầu
nhanh chóng biểu dương những tấm gương người tốt, việc tốt, động viên khuyến
khích bằng vật chất hoặc tinh thần, nhằm phát triển cái tốt để chống lại cái
xấu, vì mục tiêu xây dựng con người mới, làm cho xã hội ngày một tiến bộ. Mỗi
khi đọc trên báo chí, thấy tấm gương “người tốt, việc tốt” nào, nhất là những
người đi đầu khởi xướng phong trào, Người liền cử cán bộ đi xác minh và tặng
“Huy hiệu Bác Hồ” cho người có thành tích xứng đáng. Cả nước có khoảng 5.000
người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng “Huy hiệu Bác Hồ” qua phong trào
“Người tốt, việc tốt”. Những ai được nhận “Huy hiệu Bác Hồ” đều tự hào kể lại
những mẩu chuyện cảm động khi nhận phần thưởng cao quý này. Quan trọng hơn nữa,
những phần thưởng đó, sau này trở thành bài học nêu gương cho các thế hệ con
cháu họ.
Hồ Chí Minh từng yêu
cầu: “Tôi ra lệnh cho Bộ Tổng tư lệnh mau chóng khen thưởng những đơn vị và
những chiến sĩ đã lập nhiều chiến công oanh liệt”1. Trong “những việc cần phải làm ngay” gửi cán bộ, chiến sĩ
tỉnh Hòa Bình, Lào Cai, Người nhắc nhở: “Xét kỹ và báo cáo những đơn vị và cá
nhân có công trạng đặc biệt để Chính phủ khen thưởng”2, “vì khen
thưởng khuyến khích rất nhiều, vì khen thưởng là tổng kết và phổ biến kinh
nghiệm ra cho mọi ngành hoạt động”3, “vì khen thưởng cũng là một cách giáo dục và cổ động. Bộ
đội, đồng bào có thành tích mà Trung ương, Chính phủ khen thưởng thì mới hăng
hái hơn và những người chưa có thành tích sẽ thi đua tích cực. Từ trước đến nay
địa phương rất ít báo cáo, bây giờ các cô, các chú phải tích cực làm”4.
3. Khéo dùng người, trọng dụng người tài
Là người lãnh đạo giỏi
thì phải khéo dùng người và trọng dụng nhân tài. Xuất phát từ mục tiêu chung là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ những trí
thức được đào tạo cơ bản từ các nước phương Tây, quan lại của triều đình phong
kiến cũ.
Người xác định, việc
dùng người phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường của họ, đúng người, đúng
việc, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn” và phải cho họ hiểu rõ mọi mặt
các công việc họ phải phụ trách. Dùng người mà không đúng công việc sẽ không
chạy, không được việc, làm thui chột nhân tài, có hại cho Đảng và cũng thể hiện
sự yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng.Người cho rằng, vì “cách lãnh đạo của
ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm
xuống, không được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần
phải sửa chữa cách lãnh đạo”5.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải biết trọng dụng nhân tài, nếu không sẽ làm
“thui chột” nhân tài. Việc trọng dụng nhân tài theo quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng những
cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho
công việc chung của chúng ta”6. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trọng dụng nhân tài phải
biết tuỳ tài mà dùng người: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm
việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người
như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”7. Bởi vậy, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được
thành lập, trong lúc còn bộn bề khó khăn, thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã quan tâm tìm người tài để xây dựng đất nước và Người chính là tấm
gương sáng cho việc tìm nhân tài và trọng dụng nhân tài. Ngày 14/11/1945, trên
báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có
nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân
tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”1. Người chủ trương phải “tìm người tài đức”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, một quốc gia, một đất nước không biết sử dụng nhân tài là một khuyết
điểm to, làm lãng phí một vốn quý của Đảng và Nhà nước trong xây dựng và kiến
thiết.
4. Phong cách cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo
Một yêu cầu quan trọng
trong phong cách của người đứng đầu, người lãnh đạo là phải có sự thống nhất
giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng động, sáng tạo, sự nhạy cảm
với cái mới. “Trung với Đảng”, “trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất
chính trị cơ bản, thể hiện trong mọi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định, điều chủ chốt trong phong cách làm việc của cán bộ
lãnh đạo là phải: “Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực
hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân
lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
việc”2.
Nhiệt tình cách mạng là
yếu tố cơ bản trong phẩm chất của người cán bộ đứng đầu, người lãnh đạo.
Vì có nhiệt tình cách mạng, người cán bộ lãnh đạo mới say mê, tận tuỵ với
công việc để tìm ra những phương án sáng tạo nhằm thực thi nhiệm vụ đạt hiệu
quả cao. Tính cách mạng, lòng yêu nước, thương dân là động lực lớn thôi thúc
người lãnh đạo, quản lý chuyên tâm, lo toan, tận tuỵ, say mê với công việc.
Đồng thời, người lãnh đạo phải có sự tìm tòi sáng tạo, đề xuất được những ý
kiến hay, những phương án tối ưu để thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ lãnh đạo, phải là những người vừa “hồng”, vừa
“chuyên”, có đạo đức cách mạng, có tinh thần anh dũng, gương mẫu, chịu đựng
gian khổ, hy sinh và có năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao.
Hồ Chí Minh cho rằng,
tính khoa học phải được đảm bảo bằng tri thức khoa học. Nhiệt tình cách mạng
chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi nó được thống nhất với các tri thức khoa học
và trên cơ sở khoa học. Nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí
nếu thiếu tri thức khoa học. Thực tiễn cho thấy, có nhiệt tình mà thiếu tri
thức khoa học sẽ dẫn tới sai lầm, chệch hướng, làm hỏng đường lối, chính sách,
hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá hoại vô ý thức. Những chương
trình, dự án, kế hoạch với những ý tưởng tốt đẹp, nhưng do thiếu tri thức dẫn
đến thất bại, gây ra tổn thất nặng nề.
Để có tri thức khoa
học, người cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải chịu khó học tập, nghiên cứu để
nâng cao trình độ về chính trị, văn hoá, nghiệp vụ cũng như nắm được tình hình
trong và ngoài nước. Chủ quan, tự mãn, ít nghiên cứu lý luận và thực tiễn nên
gặp thuận lợi dễ lạc quan, gặp thành công sớm dễ mắc phải căn bệnh kiêu ngạo;
khi gặp khó khăn thì dễ lúng túng, bị động, dẫn đến bi quan, dao động, lập
trường cách mạng không vững… Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ đảng viên nói
chung, nhất là với cán bộ lãnh đạo: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt
đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho
mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày
càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân
dân”1.
Học tập, nghiên cứu,
“học và hành” theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là đảm bảo sự thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm. Cán bộ, đảng viên cần phải có lý luận
lãnh đạo cần nắm chắc lý luận mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Chủ tịch
Hồ Chí Minh xác định: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho
chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt
mà đi”2, “làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm
tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”3.
Khẳng định vai trò của lý
luận, Hồ Chí Minh chỉ rõ sự cần thiết phải biết liên hệ lý luận với thực tiễn
trong công tác lãnh đạo. Vì: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”5,
nên lý luận mà xa rời thực tiễn thì sớm muộn sẽ dẫn tới bệnh giáo điều, sách
vở, nên người cán bộ lãnh đạo phải nắm chắc lý luận, đồng thời qua kinh nghiệm
làm việc, phải hiểu rõ sự vận động của các quan điểm lý luận trong thực tiễn,
qua đó dự báo được những biến đổi của tình hình, của nhiệm vụ cách mạng, từ đó
mới có thể thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.
Một trong những yêu cầu
về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là phải nắm chắc lý
luận, nhưng không được “lý luận suông”, mà phải có năng lực vận dụng lý luận
vào thực tiễn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập
cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là
học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách
sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn ở nước ta”1. Người chủ trương “phải gắn lý luận với công tác thực tế”.
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng một mặt phải xuất phát từ tình hình cụ
thể,giải thích cho quần chúng hiểu và thực hiện các chủ trương, chính sách đó
như thế “lý luận mới không tách rời thực tế”.
Trong mọi công tác, tùy
theo hoàn cảnh cụ thể, người lãnh đạo có thể sử dụng nhiều hình thức, biện pháp
khác nhau để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, cần có sự
vững vàng, không thay đổi trong những vấn đề thuộc về nguyên tắc, đó là những
vấn đề có tính chiến lược, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước là “bất biến, phải giữ vững như sắt đá”.
Cùng với kiên định về
nguyên tắc, những vấn đề chiến lược, thì sách lược cách mạng, các hình thức,
phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành phải mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp
với thực tế để có thể đạt kết quả cao nhất. Điều đó thuộc về bản lĩnh của người
lãnh đạo, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến”, thể hiện sự linh hoạt trong
hoạt động lãnh đạo của mình.
Theo Hồ Chí Minh, mục
tiêu đặt ra phải được cụ thể trong từng giai đoạn. Tính bất biến, mục tiêu
trong tất cả các giai đoạn của cách mạng là độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. Trong bản Di
chúc, Người nói lên mong muốn cuối cùng, cũng là mục tiêu chung của
cuộc cách mạng là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh”2. Tuy nhiên, con đường đi đến mục tiêu đó là con đường đấu
tranh lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ. Người đứng đầu, người lãnh đạo cần sáng
suốt, tỉnh táo, nhạy bén để xác định sách lược, hình thức, biện pháp thực hiện
trong những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể, trong mỗi bước đi, mỗi bước
tiến lên của cách mạng.
Những nội dung xây dựng
phong cách lãnh đạonêu trên không nằm ngoài những quy định chung trong phong
cách làm việc của cán bộ, đảng viên, đồng thời, có yêu cầu cao hơn, thể hiện vị
trí, vai trò, trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trên cương vị lãnh đạo.
Phần thứ ba
ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH LÀM VIỆC, PHONG CÁCH LÃNH
ĐẠO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Năm 1982, trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, Đảng ta đã đặc biệt phê
phán tệ quan liêu biểu hiện trên nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là quan liêu
trong việc đề ra chính sách, chế độ, quan liêu trong tổ chức bộ máy và trong
phong cách làm việc của cán bộ, phê phán phong cách quản lý kinh tế theo lối
quan liêu bao cấp, tệ quan liêu hành chính, thái độ cửa quyền, yêu cầu phải có
trăm nghìn biện pháp để chống quan liêu và bảo thủ. Đồng thời, nhấn mạnh yêu
cầu cán bộ đảng viên phải trau dồi cho mình quan điểm của Đảng đối với quần
chúng một cách sâu sắc, phải sát cơ sở, sát quần chúng để chỉ đạo, nghiên cứu
chính sách, chế độ, tạo điều kiện cho sáng kiến của quần chúng nẩy nở, những
nhân tố tích cực sớm được nâng lên. Đồng thời, yêu cầu phải đổi mới phương pháp
làm việc, xây dựng phong cách làm việc lêninnit của Đảng. Văn kiện cũng chỉ ra rằng,
phương pháp và chế độ làm việc đúng là một yếu tố đặc biệt, trọng yếu để đảm
bảo tính chính xác của việc ra quyết định và biến nó thành hiện thực, đặc biệt
nhấn mạnh đổi mới phương pháp chuẩn bị và ra các quyết định, tổ chức thực hiện
các quyết định;không vì nể nang, e dè mà dung hoà ý kiến, ra quyết định nửa
vời, thực hiện nghị quyết không thống nhất. Như vậy, trong điều kiện việc cụ
thể hoá đường lối còn nhiều bất cập, càng cần đổi mới phong cách làm việc của
cán bộ lãnh đạo, quản lý, đi sâu vào thực tiễn, nhìn thẳng vào khó khăn, phát
hiện những kinh nghiệm và cách làm mới, trên cơ sở đó đổi mới tư duy, đề ra chủ
trương, chính sách phù hợp.
Từ Đại hội V tới nay,
Đảng ta nhiều lần khẳng định nhiệm vụ xây dựng, đổi mới phong cách làm việc của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay theo hướng thực sự dân chủ,
kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng, làm việc có chương
trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, nói đi đôi với làm.Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục yêu cầu trong công tác xây dựng Đảng,
đối với cán bộ, đảng viên phải xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể,
dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.
Triến khai thực
hiện Nghị quyết của Đại hội XII, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa
XII “đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIIvề “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”,
chúng ta cần chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện phong cách
làm việc dân chủ, quần chúng, khoa học, nêu gương cho cán bộ, đảng viên và
phong cách dân chủ, quyết đoán, sâu sát, khéo dùng người, trọng dụng người tài,
cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo cho người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo,
quản lý của Đảng và Nhà nước.
Sau đây là một số giải
pháp nhằm thực hiện tốt việc học tập và làm theo phong cách lãnh đạo, phong
cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
1. Tăng cường giáo dục, rèn luyện xây dựng phong cách làm
việc, phong cách lãnh đạo trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các
cấp, các ngành
Đưa nội dung giáo dục
về xây dựng phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh vào các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống học viện, trường chính trị,
trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện dành cho cán bộ, đảng viên và cán bộ
lãnh đạo, người đứng đầu các cấp, các ngành, trong đó, chú ýtrang bị hệ thống
tri thức tổng hợp, phương pháp tư duy khoa học và năng lực tổ chức thực tiễn
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Tăng cường việc giáo
dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; các tri thức khoa học và kỹ
thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý hiện đại cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý. Thông qua việc giáo dục, học tập nâng cao ý chí, nghị lực để
giải quyết những vấn đề, những khó khăn, thử thách trong thực tế công tác; có
khả năng đề kháng với những cái xấu, tiêu cực, tránh được sự cám dỗ quyền lực,
đặc quyền, đặc lợi,...
Thực hiện nghiêm Quy
định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về quy định
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt
các cấp trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; và Quy
định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay
để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên.
2. Giữ vững các nguyên tắc“tập trung dân chủ” và “tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách”
Giữ vững nguyên tắc
“tập trung dân chủ” trong làm việc vàtuân thủ nghiêm nguyên tắc “tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách” trong lãnh đạo, quản lý.Tăng cường phát huy dân chủ để
khơi dậy tính sáng tạo, tập trung trí tuệ tập thể trong việc xây dựng, thực
hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, tăng cường
trách nhiệm của người đứng đầu. Xây dựng quy định về trách nhiệm, quyền hạn của
cấp ủy, người đứng đầu các cấp trong thực thi công vụ, trong đó, nêu rõ những
yêu cầu về phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo.
3. Tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên,
Đẩy nhanh việcxây dựng
các quy định, quy chế, nội quy trong thực thi công vụ và thực hiện nghiêm túc
các quy định về công tác quản lý cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
người đứng đầu về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách làm việc,
phong cách lãnh đạo.
Thường xuyên kiểm tra,
giám sát hoạt động công vụ của cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, đối với cán bộ lãnh
đạo và người đứng đầu các cấp, các ngành, cần xây dựng quy định kiểm tra, giám
sát thường xuyên của cấp ủy cấp trên, quy định kiểm tra, giám sát của tổ chức
đảng và của các đoàn thể, nhân dân, để kịp thời phát hiện, phê bình, uốn nắn
sai phạm, khuyết điểm.
Thực hiện nghiêm Quy
định số 55-QĐ/TW, ngày 10/01/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác kiểm tra của tổ chức đảng
đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên.
4. Xây dựng các quy định về đạo đức công vụ, phong cách làm việc,
phong cách lãnh đạo
Sớm xây dựng các quy
định về đạo đức công vụ, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo, kèm theo các
yêu cầu bắt buộc, cùng các chế tài cụ thể để xử lý sai phạm.Các tiêu chí về đạo
đức công vụ phải cụ thể, rõ ràng và khả thi, tức là có thể thực hiện theo, có
thể kiểm tra, đánh giá, có thể theo dõi, giám sát. Ví dụ, từ những quy định nhỏ
về tôn trọng giờ giấc làm việc, hội họp; quy định về xưng hô với nhân dân, tổ
chức, doanh nghiệp - đối tượng được phục vụ; quy định về trang phục công sở...
Trong các tiêu chí cần đặc biệt quan tâm tới mối quan hệ với nhân dân, trên cả
2 phương diện: nhân dân là đối tượng được phục vụ và nhân dân là chủ thể giám
sát, kiểm tra, theo dõi thực hành công vụ. Phải xác định rõ, những nội dung nào
cần phải công khai, minh bạch, đảm bảo yêu cầu phát huy dân chủ trong thực hành
công vụ. Nhất thiết phải có những quy định về thực hành tiết kiệm, chống tham
ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu về cả tiền bạc, vật chất, thời gian.
Tinh thần, thái độ, sự
tận tụy với công việc cần được lượng hóa thành các quy định cụ thể, ví dụ:
không giới hạn thời gian tiếp nhân dân, tổ chức, doanh nghiệp trước khi hết giờ
làm việc...Đi kèm theo các quy định cụ thể, cần có chế tài đối với các vi phạm
quy định và xác định cơ quan có chức năng xử lý vi phạm. Đồng thời, phải có
những quy định để ràng buộc giữa lời nói và hành vi của cán bộ, công chức, viên
chức, bảo đảm nói đi đôi với làm, nói thì phải làm và làm cho tốt. Nếu nói
không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói một đường làm một nẻo thì người cán
bộ, công chức, viên chức phải bị xử lý kỷ luật.
5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
Các tổ chức cơ sở đảng,
cấp ủy, ủy ban kiểm tra của cấp ủy các cấp tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát của tổ chức đảng đối với việc xây dựng, thực hiện phong cách làm việc của
cán bộ, đảng viên, phong cách lãnh đạo của người đứng đầu các cấp.
Hồ Chí Minh đánh giá
rất cao công tác kiểm tra, giám sát. Người đã thường xuyên nhắc nhở: Các cấp,
các ngành nếu tổ chức tốt việc kiểm tra, giám sát cũng như “Ngọn đèn pha”, bao
nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm chúng ta đều biết rõ. Có thể
nói chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm
tra, giám sát. Nếu tổ chức kiểm tra, giám sát chu đáo thì công việc của chúng
ta nhất định tiến bộ gấp mười, gấp trăm.
Kiểm tra, giám sát phải
kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức kiểm tra, giám sát. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra: “Kiểm soát có hai cách: một là từ trên xuống,
tức là người lãnh đạo kiểm soát những kết quả công việc của cán bộ mình. Một
cách nữa là từ dưới lên, tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của
người lãnh đạo và bày tỏ các cách sửa chữa sự sai lầm đó”1. Vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân thực hiện thông qua
quy chế dân chủ ở cơ sở với cơ chế: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Nhân dân thông qua các tổ chức của mình thực hiện kiểm tra, giám sát cán bộ
lãnh đạo, quản lý. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phải căn cứ vào chức năng nhiệm
vụ của mình để làm tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân.
Thực hiện nghiêm Quyết
định số 99-QĐ/TW, ngày 03/10/2017 của Bộ Chính trị về ban hành Hướng dẫn khung
để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của
nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Sự tham gia tích cực,
có hiệu quả của quần chúng nhân dân trong xây dựng Đảng, trong quá trình kiểm
tra, thanh tra sẽ thắt chặt hơn mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền
với nhân dân. Trong nhiều trường hợp,do nhiều nguyên nhân, những khuyết điểm,
sai lầm của cán bộ, đảng viên, không bị lãnh đạo, hoặc cơ quan kiểm tra phát
hiện, hoặc không phát hiện được kịp thời, nhưng không thể che giấu được trăm
ngàn "tai mắt" của nhân dân. Thực tế những năm qua, quần chúng nhân
dân đã phát hiện nhiều trường hợp đảng viên vi phạm ở nhiều lĩnh vực như: phẩm
chất đạo đức, lối sống, tham nhũng, vi phạm Luật đất đai, quan liêu, thiếu tinh
thần trách nhiệm...
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG