Chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954 của Quân đội và Nhân dân Việt Nam
cách đây 70 năm đã đập tan những cố gắng, nỗ lực về quân sự tối cao nhất của
thực dân Pháp và có sự can thiệp của Mỹ. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm
1954 đã bắt buộc chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Geneva (tháng 7 năm 1954).
Công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông
Dương trong đó có Việt Nam. Và đây cũng là kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ
gian khổ kéo dài chín năm (1945 – 1954) của Quân đội và Nhân dân Việt Nam. Đồng
thời cũng chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài hàng thế kỷ, chiến
thắng lịch sử này đã mở ra một bước ngoặt phát triển mới cho cách mạng Việt Nam
và Đảng cộng sản Việt Nam.
Đến năm
1953, sau 8 năm trở lại xâm lược Đông Dương, dù đã huy động tiềm lực kinh tế,
quân sự đến mức cao nhưng thực dân Pháp vẫn không đạt được mục đích cơ bản đề
ra là tiêu diệt chính phủ cách mạng và lực lượng kháng chiến, thiết lập lại nền
cai trị trên toàn Đông Dương như trước năm 1945.
Mặt khác, những khó khăn về kinh tế, tài chính và phong trào đấu
tranh của các tầng lớp nhân dân trong nước ngày càng dâng cao đẩy chính phủ
Pháp rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị mới. Lợi dụng tình thế này, đế quốc Mỹ
tăng cường can thiệp vào Đông Dương, tích cực viện trợ cho Pháp kéo dài và mở
rộng cuộc chiến nhằm phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng.
Tháng 5/1953, chính phủ Pháp cử tướng Nava - người được đánh giá
là “một nhà chiến lược văn võ kiện toàn” sang làm tổng chỉ huy quân viễn chinh
ở Đông Dương với hy vọng sớm giành thắng lợi quân sự quyết định, tìm “lối thoát
danh dự” dứt điểm cuộc chiến tranh. Sau một thời gian tìm hiểu tình hình chiến
trường, tháng 7/1953, tướng Nava đề ra kế hoạch quân sự mới ở Đông Dương (còn
gọi Kế hoạch Nava). Cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều đánh giá kế hoạch Nava
là “hoàn hảo, phù hợp”, sẽ mang đến thắng lợi trong vòng 18 tháng.
Thực hiện kế hoạch quân sự mới đề ra, thực dân Pháp mở nhiều cuộc
hành quân đánh phá, càn quét bình định, ra sức bắt lính; đồng thời đưa thêm
nhiều đơn vị quân viễn chinh vào Đông Dương. Chỉ sau thời gian ngắn, địch đã
củng cố, xây dựng được 84 tiểu đoàn cơ động chiến lược, trong đó tập trung 44
tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc bộ.
Về phía ta, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng họp bàn, đề ra chủ trương chiến lược cho hoạt động quân sự Đông Xuân
1953 - 1954: Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những
hướng địch tương đối yếu, có nhiều sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt
địch ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy
mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch, tích cực tiến
hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du
kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ. Phương châm, nguyên
tắc chỉ đạo tác chiến chiến lược là: Tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt;
đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng
thì kiên quyết không đánh.
Chấp hành chủ trương chiến lược đã đề ra, quân dân Việt Nam phối
hợp chặt chẽ cùng với quân dân hai nước bạn Lào và Campuchia mở các cuộc tiến
công trên khắp chiến trường Đông Dương buộc Pháp phải phân tán lực lượng đối
phó. Khối chủ lực cơ động của địch từ chỗ tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Bắc bộ,
chỉ sau một thời gian ngắn, chính thức “bị xé nát” thành 5 mảnh, đứng chôn chân
trên 5 khu vực (Đồng bằng Bắc Bộ, Tây Bắc, Trung Lào, Tây Nguyên, Thượng Lào)
mà hầu như không thể hỗ trợ được cho nhau.
Phối hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, ở chiến trường sau
lực địch, ta đẩy mạnh chiến tranh du kích nhằm bảo vệ căn cứ kháng chiến, chia
cắt giao thông, tiến công diệt thêm đồn bốt, căn cứ hậu cần, uy hiếp hệ thống
phòng tuyến bên ngoài của địch... Sự phối hợp chiến đấu nhịp nhàng, rộng khắp
đã đẩy quân Pháp lún sâu vào thế bị động. Kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản.
Tại mặt trận Tây Bắc, từ tháng 11/1953, trước sự tiến công của
quân ta, bộ chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương quyết định điều quân xây dựng Điện
Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh. Trong toan tính của tướng Nava, Điện Biên
Phủ giữ vị trí chiến lược quan trọng nhằm bảo vệ Tây Bắc, Thượng Lào. Mặt khác,
nơi đây là thung lũng phì nhiêu (dài 18km, rộng 6 - 8km), giàu có nhất vùng Tây
Bắc. Không gian và địa thế đó cho phép xây dựng một tập đoàn cứ điểm mạnh nhằm
thu hút và đánh bại chủ lực đối phương.
Đến đầu tháng 3/1954, quân địch tập trung tại Điện Biên Phủ lên
đến 16.200 tên, gồm những đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, xe tăng, không
quân thuộc loại tinh nhuệ nhất ở Đông Dương; được bố trí thành hệ thống phòng
ngự mạnh, gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu. Cả Pháp và Mỹ đều đánh giá
Điện Biên Phủ là “pháo đài không thể công phá”, công khai thách thức đối phương
tiến công.
Về phía ta, sau khi phân tích kỹ tình hình mọi mặt, nhất là so
sánh tương quan lực lượng địch - ta, Trung ương Đảng và Bộ chỉ huy tối cao đã
quyết tâm mở chiến dịch tiến công Điện Biên Phủ - đòn quyết chiến chiến lược
nhằm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đại tướng Võ
Nguyên Giáp được giao trọng trách Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.
Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, cả
nước dồn sức cho chiến trường Điện Biên Phủ. Lực lượng tham gia chiến đấu lên
đến 55.000 quân, gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57
(Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351. Trên 260.000 dân công và
27.400 tấn gạo được huy động để cung cấp cho chiến dịch. Hàng vạn thanh niên
xung phong phối hợp cùng bộ đội công binh ngày đêm mở đường ra mặt trận dưới
bom đạn địch, nên sau một thời gian ngắn, hàng ngàn km đường được xây dựng, sửa
chữa. Công tác chuẩn bị các mặt trên vượt ra ngoài mọi dự đoán, tạo bất ngờ lớn
đối với cả Pháp và Mỹ.
Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công, mở màn chiến dịch. Sau
56 ngày đêm chiến đấu dũng mãnh, vượt qua muôn vàn gian khổ, “gan không núng,
chí không mòn”, chiều 7/5/1954, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ, bắt sống tướng chỉ huy De Castries, kết thúc thắng lợi trận
quyết chiến chiến lược.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang
của thời đại Hồ Chí Minh.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, tạo
bước ngoặt lịch sử làm thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta và địch, trực tiếp
đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình
ở Đông Dương.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, chấm dứt hoàn toàn ách xâm
lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương;
bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám. Một nửa nước được giải
phóng, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để đưa nhân dân ta tiến lên giành thắng
lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã làm tăng thêm niềm tự hào dân
tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh;
cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ chiến đấu dưới lá cờ vẻ
vang của Đảng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cũng là chiến thắng chung của
các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào Cộng sản và công
nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn
thế giới. Chiến thắng này chứng minh một chân lý của thời đại: Các dân tộc bị
áp bức, xâm lược, nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết
đoàn kết đấu tranh vì độc lập, tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi; đã
thôi thúc, khích lệ và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh
đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực
dân đế quốc.
Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ trong bối
cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức thi đua thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Phát huy tinh thần Điện Biên Phủ, phát huy
chủ nghĩa anh hùng cách mạng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, chúng ta nguyện chung sức, đồng lòng phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc để thực hiện mục tiêu cao cả của Đảng xây dựng một nước Việt Nam
ngày càng phồn vinh, cường thịnh.
Lê Trường - Trung tâm VH
xã Bàu Cạn