Lúc
bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tình tự nhiên. Tôi
chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một
người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình; trước đó tôi chưa hề đọc một
quyển sách nào của Lênin viết.
Tôi
tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông bà” ấy (hồi đó tôi gọi các
đồng chí của tôi như thế) - đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các
dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu.
Hồi
ấy, trong các chi bộ của Đảng Xã hội, người ta bàn cãi sôi nổi về vấn đề có nên
ở lại trong Quốc tế thứ hai, hay là nên tổ chức một Quốc tế thứ hai rưỡi, hoặc
tham gia Quốc tế thứ ba của Lê nin? Tôi dự rất đều các cuộc họp một tuần hai
hoặc ba lần. Tôi chăm chú nghe những người phát biểu ý kiến. Lúc đầu, tôi không
hiểu được hết. Tại sao người ta bàn cãi hăng như vậy? Với Quốc tế thứ hai, hoặc
thứ hai rưỡi, hay là thứ ba, thì người ta cũng đều làm được cách mạng cả, sao
lại phải cãi nhau? Và còn Quốc tế thứ nhất nữa, người ta đã làm gì với nó rồi?
Điều
mà tôi muốn biết hơn cả - và cũng chính là điều mà người ta không thảo luận
trong cuộc họp 1à: vậy thì cái quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa?
Trong
một cuộc họp, tôi đã nêu câu hỏi ấy lên, câu hỏi quan trọng nhất đối với tôi.
Có mấy đồng chí đã trả lời: Đó là Quốc tế thứ ba, chứ không phải Quốc tế thứ
hai. Và một đồng chí đã đưa cho tôi đọc Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc thuộc địa đăng
trên báoNhân
đạo.
Trong
Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều
lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi
rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đông đảo: “Hỏi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ. Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.
Từ
đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế.
Trước
kia, trong các cuộc họp chi bộ tôi chỉ ngồi nghe người ta nói; tôi cảm thấy
người nào cũng có lý cả, tôi không phân biệt được ai đúng ai sai. Nhưng từ đó
tôi cũng xông vào những cuộc tranh luận. Tôi tham gia thảo luận sôi nổi. Mặc dù
chưa biết đủ tiếng Pháp để nói hết ý nghĩ của mình, tôi vẫn đập mạnh những lời
lẽ chống lại Lênin, chống lại Quốc tế thứ ba. Lý lẽ duy nhất của tôi là: Nếu
đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu đồng chí không bênh vực các dân
tộc thuộc địa thì đồng chí làm cái cách mạng gì?
Không
chỉ tham gia các cuộc họp của chi bộ mà thôi, tôi còn đến những chi bộ khác để
bênh vực lập trường của tôi''. Ở đây, tôi cần nhắc thêm rằng các đồng chí
Mácxen Casanh, Vayăng Cutuyariê, Môngmútxô và nhiều đồng chí khác đã giúp đỡ
tôi hiểu biết thêm. Cuối cùng ở Đại hội thành phố Tua, tôi cùng các đồng chí ấy
biểu quyết tán thành tham gia Quốc tế thứ ba.
Lúc
đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi
tin theo Lênin, tán thành theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu
tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi
hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Ở
nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái '”cẩm nang” đầy
phép lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang
ra, thì thấy ngay cách giải quyết. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những
người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái ''cẩm nang'' thần kỳ,
không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta
đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản./.
Phạm Văn Thắng (nguồn: dangcongsan.vn)