1. Ngày quốc tế người
cao tuổi 1/10 mở
đầu cho tháng 10 với những ngày lễ, kỷ niệm quan trọng. Năm 1982 lần đầu tiên
Liên Hiệp Quốc đã tiến hành Đại hội thế giới về tuổi già tại Áo, hơn 3.000 đại
biểu của hầu hết các nước trên thế giới tham dự. Đại biểu của Việt Nam là giáo
sư Phạm Khuê, viện trưởng viện lão khoa Việt Nam. Hội nghị đã thông qua chương
trình hoạt động quốc tế về tuổi già và khuyến nghị chính phủ và nhân dân các
nước quan tâm giải quyết từng bước những vấn đề về người cao tuổi căn cứ vào
hoàn cảnh cụ thể của nước mình, tập trung vào 6 lĩnh vực: Sức khoẻ và ăn uống;
Nhà ở và môi trường; Gia đình; Dịch vụ và bảo trợ xã hội; Việc làm; Nâng cao sự
hiểu biết của người cao tuổi. Đến năm 1990, tức 8 năm sau Đại hội thế giới ở
Áo, để tập trung sự chú ý của thế giới về vấn đề người cao tuổi, đại hội đồng
Liên Hiệp Quốc quyết định lấy ngày 1/10 hàng năm làm ngày quốc tế người cao
tuổi, bắt đầu từ 1/10/1991.
2. Ngày Doanh nhân
Việt Nam (13/10/2004): Nguyên
Thủ tướng Phan Văn Khải ký Quyết định cho phép lấy ngày 13/10 hằng năm làm ngày
Doanh nhân Việt Nam – ngày sinh nhật của doanh nhân Việt Nam) hay nói cách khác
là kỷ niệm lần thứ 68 (ngày 13/10/1945 – 13/10/2013) là ngày Bác Hồ gửi thư cho
giới công thương để động viên, kêu gọi họ bỏ vốn ra để phát triển sản xuất –
kinh doanh xây dựng một nền kinh tế.
Ghi nhận và xác định vai
trò, nhiệm vụ của doanh nhân, ngày 9/12/2011, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 09 về “Xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân trong thời kỳ công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế...”. Đây là lần đầu tiên
trong lịch sử, Đảng ta xác định giới công thương trở thành đội ngũ doanh nhân -
là người chiến sĩ trên mặt trận kinh tế - người lính trên thương trường. Đây là
niềm danh dự đồng thời cũng xác định trách nhiệm của đội ngũ doanh nhân, là lực
lượng đi đầu thực hiện “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm” (theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội lần XI của Đảng).
3. Ngày thành lập hội
nông dân Việt Nam (14/10/1930): Dưới
sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và thanh niên cách mạng đồng chí hội,
cuối năm 1926 đầu năm 1927, một số địa phương hình thành “Nông Hội Đỏ” chỉ đạo
cuộc nổi dậy của nông dân đấu tranh chống thực dân, địa chủ phong kiến và tư
sản, đòi quyền dân sinh dân chủ; tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nông dân Cao
Lãnh, Sa Đéc, Gia Định, Đức Phổ, Duyên Hà, Tiền Hải…. đi tới đỉnh cao là Xô
Viết Nghệ Tĩnh. Ngay từ khi thành lập, Đảng ta rất coi trọng việc giáo dục, tổ
chức, động viên đưa quần chúng ra đấu tranh chính trị và xây dựng đội quân
chính trị quần chúng cách mạng. Tại kỳ họp ban chấp hành Trung Ương Đảng lần I
(khoá I) từ 14/10 đến cuối tháng 10 năm 1930, “Nông hội đỏ” chính thức ra đời.
Sự kiện thành lập Nông
hôi đỏ đánh dấu sự trưởng thành quan trọng về chất của giai cấp nông dân Việt
Nam. Lần đầu tiên đưa gia cấp nông dân có đoàn thể cách mạng của mình, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, tổ
chức Hội nông dân Việt Nam liên tục phát triển dưới nhiều hình thức và tên gọi
phù hợp: “Hội tương tê ái hữu”, “Hội nông dân phản đế”, “Hội nông dân cứu
quốc”, trở thành một thành viên chủ lực của mặt trận Việt Minh, là lực lượng
nòng cốt và đông đảo nhất tham gia khởi nghĩa tháng tám 1945. Trong thời gian
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tổ chức Hội được duy trì và liên tục phát triển.
Hội nông dân giải phóng Miền Nam được thành lập, là thành viên quan trọng của
mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, tham gia các phong trào cách
mạng: đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận; xây dựng hậu phương chiến đấu tại
chỗ…., góp phần làm thất bại mọi âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân kiểu
mới của đế quốc Mỹ.
Ở miền Bắc, hội nông dân
tập thể đã vận động nông dân đi theo con đường hợp tác hoá: vừa sản xuất, vừa chiến
đấu bảo vệ hậu phương, chi viện sức người sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam –
thành đồng tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Chiến thắng mùa xuân năm 1975, mà
đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành toàn thắng trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
Bước vào thời kỳ mới,
nông dân 2 miền Nam Bắc sát cánh cùng toàn dân đi tiếp con đường cách mạng mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn; nhiệt tình tham gia xây dựng tổ chức của
giai cấp nông dân - hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam từng bước lớn mạnh.
Ngày 1/3/1988, hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam được đổi tên là hội nông
dân Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần I hội nông dân Việt Nam họp từ
ngày 28 đến ngày 29/3/1988 tại Hà Nội, là một cột móc quan trọng, một bước
ngoặc có ý nghĩa lịch sử trong sự phát triển của phong trào nông dân: Hội nông
dân Việt Nam, một tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân
được chính thức thành lập, có hệ thống từ Trung Ương đến cơ sở; khẳng định
những quan điểm cơ bản của Đảng ta về vai trò, vị trí của giai cấp công nông
dân và hội nông dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời đề ra những
mục tiêu, nội dung hoạt động của Hội, thực hiện đường lối mới của Đảng.
4. Ngày Dân vận của cả
nước: 15/10/1930: Cách
đây 83 năm, từ ngày 14 đến ngày 31/10/1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội
nghị Trung ương lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, Án Nghị quyết về tình hình Đông dương và nhiệm vụ cần
kíp của Đảng, thông qua các Án Nghị quyết về công nhân vận động, phụ nữ vận
động, nông dân vận động, Phản đế đồng minh, cộng sản thanh niên vận động, phụ
nữ vận động, quân đội vận động và vấn đề cứu tế. Hội nghị đã xác định đường lối
chính trị của cách mạng Việt Nam, trong đó công tác vận động và giác ngộ quần
chúng đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc trở thành nhiệm vụ to lớn của
Đảng.
Xuất phát từ thực tiễn
lịch sử có ý nghĩa to lớn nói trên, Bộ Chính trị, khóa VIII quyết định lấy ngày
15/10 một trong những ngày diễn ra Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất và
cũng là ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo “Dân vận” (15/10/1949) làm ngày
“Truyền thống dân vận của Đảng” và là “Ngày dân vận của cả nước”. Từ đó đến nay,
ngày 15/10 hàng năm đã đi vào đời sống chính trị của Đảng và nhân dân, động
viên và nhắc nhở trách nhiệm đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, chiến sĩ
lực lượng vũ trang và đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận của Đảng, nhà nước,
các đoàn thể làm tốt hơn công tác vận động nhân dân.
5. Ngày truyền thống Hội liên hiệp thanh
niên Việt Nam (15/10/1956):
Ngày 27/3/1946, chủ tịch
Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 38 về việc thành lập nhà thanh niên và thể thao.
Cũng vào thời gian đó, ban thường vụ Trung Ương Đảng chỉ thị cho tổng bộ Việt
Minh chuẩn bị thành lập Đoàn thanh niên Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu cầu đoàn
kết, tập hợp mọi tầng lớp thanh niên Việt Nam phục vụ sự nghiệp “kháng chiến
kiến quốc”. Tháng 6/1946, tổng Đoàn thanh niên Việt Nam ra đời (gọi tắt là đoàn
thanh niên Việt Nam), sau đổi tên thành liên đoàn thanh niên Việt Nam – là một
tổ chức rộng rãi của mọi tầng lớp thanh niên yêu nước tự nguyện đứng vào hàng
ngũ của liên đoàn. Với ý nghĩa mở rộng khối đại đoàn kết thanh niên, tăng thêm
các thành viên tập thể của mắt trận đoàn kết tập hợp thanh niên (ở vùng tự do
và vùng mời giải phóng) đại hội đại biểu toàn quốc liên đoàn thanh niên Việt
Nam lần II (từ ngày 8 đến ngày 15/10/1956 tại thu đô Hà Nội) đã quyết định
thành lập Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam và coi đại hội này là đại hội lần I
thành lập hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
6. Ngày thành lập Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930): Từ nghị quyết đầu tiên về công tác vận động phụ nữ (tháng
10/1939) đến các nghị quyết của Đảng nói về công tác phụ nữ, các bài viết của
chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta đều gắng
liền với sự nghiệp giải phóng phụ nữ với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng loài người. Phụ nữ được coi là một
tổ chức quần chúng của Đảng.
Qua các thời kỳ, tổ chức
phụ nữ đã có những tên gọi khác nhau phù hợp với nhiệm vụ cách mạng: Hội phụ nữ
phản đế (20/10/1930); Đoàn phụ nữ cứu quốc (16/6/1941); Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam (20/10/1946); Với đoàn phụ nữ cứu quốc làm nòng cốt, tháng 4/1950 đoàn
phụ nữ cứu quốc đã họp nhất vào hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Hội phụ nữ giải
phóng (thành lập ngày 8/3/1961) ở miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước,
cũng hợp nhất vào hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tháng 6/1976. Hội liên hiệp phụ
nữ Việt Nam được Đảng tổ chức và lãnh đạo để làm cách mạng và chăm lo quyền lợi
cho phụ nữ Việt Nam, thực hiện nam nữ bình đẳng. Qua gia đoạn cách mạng, phụ nữ
Việt Nam luôn luôn xứng đáng với lời khen ngợi của chủ tịch Hồ Chí Minh “Anh hùng,
bất khuất, trung hậu, đảm đang”./.