Bác bắt tay
anh chị em chúng tôi rồi vui vẻ chỉ ghế mời chúng tôi ngồi. Bác hồn nhiên, cởi
mở, chủ động và gần gũi với tất cả đàn con đang quây quần chung quanh Người.
Vào câu
chuyện. Bác nói lên một câu nói trang trọng đầy tình nghĩa. Nhìn Thủ tướng Phạm
Văn Đồng rồi nhìn sang chúng tôi khắp lượt, Bác nói, giọng chậm rãi, ôn tồn, ấm
áp:
- Hôm nay
tôi và đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt 20 triệu đồng bào miền Bắc hoan nghênh
các cô các chú trong Liên minh ra thăm miền Bắc.
Bác lần
lượt hỏi thăm sức khỏe mỗi người chúng tôi. Người hỏi về chuyến đi từ trong
vùng giải phóng miền Nam
ra đến miền Bắc có an toàn không? đi bằng phương tiện gì? đường sá như thế nào?
ăn uống ra làm sao? Bác lại hỏi gia đình của mỗi chúng tôi hiện ở đâu? Có được
an toàn không? Sinh sống làm ăn như thế nào? Bác hỏi rất tỉ mỉ, rất thân tình.
Chúng tôi không dám nói nhiều về bản thân nhưng khi nghe chúng tôi trả lời ngắn
Bác lại hỏi thêm một số chi tiết cho đầy đủ. Thấy tôi đeo kính cận thị Bác hỏi
kính nặng mấy điốptơri. Rõ ràng là Người có sự quan tâm rất mực của một người
cha hiền.
Bác hỏi
chúng tôi rất kỹ về tình hình vùng giải phóng, vùng đô thị bị tạm chiếm. Nghe
kể về Huế, Bác rất chăm chú, thỉnh thoảng Bác gợi lại vài kỷ niệm từ của thời
thơ ấu, nhắc tới những nơi Bác đã từng sống qua: trường Quốc học, thành nội,
chợ Xép, quán Ao Hồ, cầu Tràng Tiền... Bác hỏi ở Huế có những chén chè nho nhỏ
để trên cái trẹt bán mỗi chén một tiền nay còn không? Bác nhắc tới tên vài
đường phố cũ ở Huế mà thuở nhỏ Bác đi học ở đây thường qua lại. Trí nhớ của Bác
thật dồi dào, Bác hồ hởi nhắc lại tuổi trẻ của mình bên bờ sông Hương. Giọng
Bác thực sự xúc động khi hỏi sông Hương hiện nay còn đẹp không? đồng bào mình
dưới ách Mỹ ngụy khổ đến mức nào? Câu nói của Bác dạt dào tình thương vô hạn
đối với đồng bào miền Nam
và gợi lên trong lòng chúng tôi một nỗi xốn xang căm thù da diết kẻ thù cướp
nước và bán nước. Miền Nam!
miền Nam
còn chưa giải phóng. Chúng tôi xót xa nghĩ tới miền Nam khi đang được ngồi dưới bầu
trời miền Bắc, bên cạnh Cha già, hiện thân vĩ đại của độc lập, tự do.
Bác nói
bằng lời văn giản dị, nôm na, ngắn gọn, cô đúc mà chúng tôi thấy thật là mới
mẻ, nhẹ nhàng. Ở vùng tạm bị chiếm miền Nam, cả đến ngôn ngữ cũng bị vẩn
đục, lai căng, pha tạp. Những lời nói của Bác đối với tôi là cả một bài học lớn
về tiếng nói, cách nói, cách dùng từ. Ngôn ngữ của Bác giàu hình tượng, sinh
động như trong ca dao tục ngữ. Bác dùng chữ, đặt câu rất giản dị và chuẩn xác.
Nếu có ai trong chúng tôi dùng chữ chưa được chuẩn, sử dụng những từ Hán Việt
nặng nề, phức tạp, không cần thiết thì Bc nhẹ nhàng vui vẻ chữa lại cho chúng
tôi.
Qua cuộc
nói chuyện, Bác đánh giá cao những hy sinh gian khổ, những sự tích anh hùng của
đồng bào ta ở hai miền với một tấm lòng ưu ái đặc biệt dành cho miền Nam tiền tuyến
đầu sóng ngọn gió. Bác nhắc nhở chúng tôi đức khiêm tốn và ý chí tiếp tục phấn
đấu, đừng tự cao, tự mãn, Bác bảo chúng tôi:
- Giỏi thì
có giỏi thật đấy nhưng nói gì thì nói chứ đừng vội kết luận rằng dân tộc Việt Nam ta là nhất
thế giới nhé!
Mọi người
chúng tôi lấy làm vui được nghe Bác truyền cho bài học khiêm tốn, giản dị mà
sâu sắc ấy. Ở gần bên Bác vừa cảm thấy được động viên, cổ vũ khích lệ rất
nhiều, đồng thời cũng cảm thấy mình chưa làm được bao nhiêu so với yêu cầu của
thực tế và lòng mong muốn của Bác.
Trích trong Bác Hồ sống mãi với chúng ta , Sđd,
t.2, tr. 836-837./.
Điểm CNTT
xã Thiện Tân