Điện Biên Phủ là cứ điểm có ý
nghĩa chiến lược khống chế cả một vùng rộng lớn của Tây Bắc và Thượng Lào. Tuy
là kế hoạch nằm ngoài dự kiến ban đầu của Kế hoạch Nava của Pháp và Mỹ, nhưng
các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã liên tiếp cho tăng cường lực lượng, xây dựng Điện
Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Địch đã cho tập trung
ở đây 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu
đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân,
1 đại đội vận tải cơ giới... nhằm xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ
điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương.
Trước tình hình đó, ngày
06/12/1953, Bộ Chính trị họp và nhận định, Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm
mạnh nhưng chỗ yếu cơ bản của địch là bị cô lập. Về phía ta, Điện Biên Phủ là
một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay; diễn ra trên địa bàn rừng núi
hiểm trở, đường cơ động cho pháo khó khăn, thời gian chuẩn bị cho chiến dịch
gấp, nhưng có ý nghĩa quân sự, chính trị và ngoại giao rất quan trọng. Bộ Chính
trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến,
thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, Đảng uỷ mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp
làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ chiến dịch. Chính phủ quyết định thành lập Hội
đồng cung cấp mặt trận do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch.
Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng
của chiến dịch, Bộ Chính trị và Tổng Quân uỷ đã quyết định tập trung 4 đại đoàn
bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000. Chấp hành quyết
định của Bộ Chính trị, mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch được tiến hành
khẩn trương. Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu
hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Các đơn vị bộ đội chủ lực
nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng
trận địa, sẵn sàng tiến công địch.
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ
có tất cả 49 cứ điểm, được chia làm 3 phân khu. Trên chiến trường, ta mở ba đợt
tiến công vào Điện Biên Phủ. Đợt 1, mở màn ngày 13/3/1954, với trận tiêu diệt cụm
cứ điểm Him Lam thuộc vòng ngoài Phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm. Đợt 2 diễn
ra ngày 30/3/1954, đánh vào phân khu trung tâm. Đợt 3 chiến dịch diễn ra ngày
01/5 và kết thúc ngày 7/5/1954, đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và tổng công
kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiều ngày 7/5/1954, ta
chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “Quyết chiến - Quyết thắng”
của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch, Chiến dịch Điện Biên
Phủ toàn thắng.
![](https://images.dost-dongnai.gov.vn//la co.jpg)
Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng
cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và
toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.
Cuộc tiến công chiến lược Đông
Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết
chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển hình nhất và là trận đầu đánh thắng
Mỹ, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hoà bình ở Đông Dương. Tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành
thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là sự
cộng hưởng của sức mạnh dân tộc và thời đại, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng là
nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh Việt Nam, bản sắc văn hóa giữ nước Việt Nam mà
nền tảng là lòng yêu nước; các nhân tố đó tiếp tục là sức mạnh bảo đảm cho sự
thành công của công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam XHCN vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
(Nguồn tham khảo)