Đang lúc chúng
tôi rất lúng túng và liên tưởng đến những cái Tết trước đây ở Tây Nguyên, được
ăn các món dân tộc, họp mặt với gia đình và bè bạn hoặc đi nổ súng vào đầu giặc
Pháp để thay pháo đầu xuân, thì được tin Bác cho chúng tôi quà Tết. Bác cho một
thứ mà chúng tôi đang ao ước, đó là một con nai. Bác còn viết thư cho chúng
tôi, đại ý tôi còn nhớ được là: “Thấy các cháu ra ngoài này lâu không được ăn
thịt thú rừng nên Bác gửi cho các cháu con nai để ăn Tết”.
Nghe xong thư
Bác, lòng chúng tôi vô cùng xúc động. Nhớ lại lúc bảy tám tuổi, mỗi khi bố mẹ
có những thứ ngon lành gì hoặc đi săn bắn được các thú rừng về thường để dành
thịt cho con hay nhường cho con trước. Bây giờ Bác đối với chúng tôi cũng thế
nữa và còn hơn thế nữa. Bác bận trăm công nghìn việc, vậy mà Bác vẫn luôn nghĩ
đến chúng tôi, biết rõ cả những ước mong về sinh hoạt, và khi nhân dân biếu Bác
con nai để ăn Tết, Bác lại gửi ngay cho chúng tôi. Đến bữa ăn, khi gắp miếng
thịt nai, tôi vừa xúc động, vừa cảm thấy hương vị của nó ngon ngọt vô cùng.
Hồi tưởng lại
lúc chưa ra tập kết, tôi cũng như nhiều anh chị em khác, chỉ có một ước mong duy
nhất là được gặp Bác một lần thì dù trong công tác có hi sinh đi nữa cũng không
hề chùn bước.
Ước mong của
chúng tôi lúc đó mới có thế, chứ đâu dám nghĩ đến chuyện được ăn quà Tết của
Bác hay được hưởng nhiều sự săn sóc, dạy bảo trực tiếp của Bác.
Thật vậy, khi
chúng tôi vừa mới đặt chân lên miền Bắc được một hôm, đang nhiều bỡ ngỡ với
phong cảnh Sầm Sơn thì Đảng, Chính Phủ, nhân dân miền Bắc đã chăm lo cho chúng
tôi mọi thứ, tỏ rõ lòng thương yêu chúng tôi vô hạn. Riêng Bác, Bác lại cho
ngay chúng tôi một món quà đặc biệt: mỗi người một chiếc áo da rất đẹp. Qua lời
đồng chí cán bộ mậu dịch đến đo may cho chúng tôi, thì đây là một tặng phẩm đặc
biệt của Bác cho đoàn văn công Tây Nguyên. Đã mười năm nay, tôi giữ chiếc áo ấy
còn như mới may để sau đây, khi trở về quê hương, tôi sẽ đem nó ra nói chuyện
với mọi người.
Đựoc Bác Hồ cho
áo rồi, tôi lại nghĩ đến chuyện gặp Bác. Lúc này tôi tin tưởng là nhất định sẽ
được gặp, nhưng chưa mường tượng nổi là sẽ gặp Bác trong khung cảnh nào. Ước
mong này đã thành sự thật và đến nhanh hơn cả dự đoán của tôi. Sau khi trú quân
ở Sầm Sơn mấy hôm thì chúng tôi được lệnh chuyển về Hà Nội và được gặp Bác
ngay.
Tôi còn nhớ rất
rõ buổi tối hôm đó ở Phủ Chủ tịch. Trong lúc chúng tôi đang mải mê hóa trang
thì thấy mấy tiếng “Bác! Bác” vang lên trong phòng và thấy một số chị em vội vã
chạy ùa ra cửa. Tôi còn đang ngơ ngác chưa biết việc gì thì thấy một chị đứng
bên bảo tôi: “Bác đến, Bác đến”! Tôi hiểu ra là Bác đến thăm chúng tôi. Mơ ước
của tôi đã thành sự thật. Vì sự việc đến bất ngờ quá nên tôi phân vân không
biết nên chạy đến gần Bác hay đứng lại chỗ để nhìn Bác. Tôi cũng quên cả việc
chào Bác mà cứ đứng nhìn xem Bác có khỏe không, có giống như ảnh chụp không?
Trong lúc tôi đang đứng ngay ra thì nghe tiếng Bác gọi:
- Các cháu Tây
Nguyên đến bắt tay Bác
Nghe tiếng Bác
gọi, tôi bồi hồi quá, vội vàng đến gần để được bắt tay. Bắt tay chúng tôi xong,
Bác thong thả đi ra ngoài. Lúc này, tôi càng xúc động, chảy cả nước mắt mà vẫn
nhìn theo Bác. Tôi cảm thấy vẫn chưa được nhìn rõ Bác vì thời gian được nhìn
Bác quá ít, mặc dầu tôi đã được đứng gần Bác và bắt tay Bác.
Một việc nữa làm
tôi xúc động hơn và cũng chưa bao giờ nghĩ tới là sau khi chúng tôi biểu diễn
xong một tiết mục, Bác thấy chúng tôi mặc áo cộc tay, liền thân mật bảo ngay:
- Các cháu mặc
ngay áo bông vào không thì bị sưng phổi đấy
Khi chúng tôi
mới trình diễn được nửa chương trình thì Bác lại bảo chúng tôi nghỉ. Bác nói:
- Diễn như vậy
là đủ, các cháu mới ra tập kết chưa quen chịu lạnh, nếu làm việc nữa sẽ bị ốm
đấy.
Bác lại cho
chúng tôi ăn kẹo bánh và dặn chúng tôi:
- Cháu nào không
ăn hết thì lấy đem về nhà.
Lúc đó tôi và
nhiều anh chị em khác trong đoàn rụt rè không ăn cứ chăm chú nhìn Bác. Thấy
vậy, Bác bảo chúng tôi:
- Các cháu cứ ăn
tự nhiên, ăn không hết thì đem về nhà cho các bạn, và nhớ phần cho cả các đồng
chí lái xe nữa.
Thấy Bác nhắc
nhở và nhìn thấy các bạn ở miền Bắc ăn uống tự nhiên, chúng tôi cũng mạnh bạo
ăn và lấy đem về để vừa ăn vừa cho các bạn. Riêng tôi có cháu nhỏ thì lấy về
cho cháu và bảo đấy là quà của ông ngoại (tôi bảo các cháu gọi Bác Hồ là ông
ngoại). Các cháu được ăn nhiều lần như vậy nên mỗi khi tôi đi biểu diễn lại
hỏi: “Hôm nay má có đến ông ngoại không?”. Thấy tôi trả lời có đến thì các cháu
vui hẳn lên, có đứa lại giục tôi đi nhanh hơn nữa. Cũng có lần đi biểu diễn nơi
khác, tôi bảo hôm nay tôi không đến ông ngoại thì các cháu tỏ vẻ không vui.
Thấy thế nên các lần đi biểu diễn ở nơi khác, tôi thường nói dối các cháu là
tôi đến ông ngoại, lúc về bao giờ tôi cũng nhớ mua cho các cháu ít bánh kẹo và
nói là quà của ông ngoại gửi cho. Kể ra tôi nói dối như vậy là có khuyết điểm
đối với Bác nhưng vì tôi thấy các cháu nhỏ người Tây Nguyên (tập kết ra Bắc)
lại được săn sóc chu đáo thế.
Lần thứ hai tôi
được gặp Bác là trong dịp chúng tôi biểu diễn để chào mừng một vị khách ngoại
quốc đến thăm nước ta. Buổi biểu diễn này có nhiều đoàn văn công tham dự. Khi
đoàn chúng tôi lên biểu diễn, tôi thất Bác rất chăm chú theo dõi, thỉnh thoảng
lại nói chuyện với vị khách ngoại quốc ngồi bên cạnh và chỉ tay lên phía chúng
tôi. Tôi đoán là Bác đang giới thiệu nghệ thuật của các dân tộc Tây Nguyên với
vị khách đó.
Sau khi biểu
diễn, Bác cho chúng tôi chụp ảnh chung để kỷ niệm. Anh chị em cứ sán đến để
được đứng cạnh Bác. Chụp ảnh xong, Bác hỏi tôi:
- Sao độ này
cháu Vin gầy thế, cháu Kim Nhớ đi đâu sao hôm nay không có mặt? Chẳng đợi tôi
kịp trả lời, Bác ân cần khuyên: - Cháu cần ăn nhiều vào cho có sức khỏe mới
được.
Tôi thưa với Bác
là Kim Nhớ đi học. Bác hỏi:
- Học gì?
Tôi thưa tiếp:
- Thưa Bác, học
văn hóa.
Thấy vậy Bác
liền bảo chúng tôi:
- Các cháu cần
phải cố gắng học tập, để sau này về Tây Nguyên hướng dẫn lại nhân dân.
Câu chuyện trên
đây làm cho tôi suy nghĩ rất nhiều. Bác tài nhớ quá. Mới gặp chúng tôi lần thứ
hai mà Bác đã thuộc tên từng người, biết rõ cả ai vắng mặt và hiểu rõ cả sức
khỏe của chúng tôi nữa. Chính do lòng thương yêu cán bộ mà Bác quan tâm đến
chung tôi như thế đấy.
Như được lòng
thương và sự dạy dỗ của Bác, tôi đã có một sự tiến bộ đáng kể về trình độ văn
hóa, tư tưởng và chuyên môn.
Lúc ra tập kết,
tôi mới thoát nạn mù chữ và chưa nói sõi tiếng phổ thông. Nay tôi đã có trình
độ văn hóa lớp tám và nói thạo tiếng phổ thông.
Về phương diện
chuyên môn thì mặc dầu tôi đã công tác trong đoàn văn công được bảy tám năm
nhưng lúc ra tập kết, tôi vẫn gần như mù nhạc, chỉ mới đọc được các nốt nhạc,
chứ chưa hiểu được nhạc lý và chưa biết xướng âm. Bây giờ tôi đã tốt nghiệp
trung cấp âm nhạc và đang tiếp tục học thêm. Tôi đã thấy yêu nghề và thích hát
những bài hát tiếng dân tộc. Trước kia, tôi rất ghét nghề văn công, cho rằng
công tác này không có tiền đồ. Chính vì có ý nghĩ đó nên hồi ở trong Nam, hễ có ai
hỏi tôi: “Tối nay diễn gì đấy” là tôi khó chịu, cho là người ta khinh thường,
muốn biết tối nay mình diễn “trò” gì. Gặp trường hợp có người hỏi thế là tôi
trả lời miễn cưỡng: “Chưa rõ lắm” hoặc làm thinh không nói gì. Cũng không phải
chỉ mình tôi coi thường nghệ thuật sân khấu mà cả chồng tôi cũng rứa. Cho nên
lúc mới ra tập kết, tôi vẫn chưa yên tâm, luôn luôn xin đổi công tác. Không
những thế, tôi lại không thích hát những bài tiếng dân tộc, vì cho là trình độ
văn nghệ của dân tộc mình còn thấp kém. Tôi chỉ thích hát những bài tiếng phổ
thông, mặc dầu khi hát lên, có nhiều đoạn hay toàn bài tôi không hiểu ý nghĩa
hoặc chỉ hiểu lơ mơ. Bây giờ thì khác hẳn trước, tôi đã yên tâm với nghề
nghiệp. Tôi đã hiểu biết được những cái hay cái đẹp của nền nghệ thuật dân tộc
tôi. Bây giờ khi hát các bài tiếng dân tộc, tôi tự thấy trình diễn hay hơn các
bài hát phổ thông, vì tôi hiểu được ý nghĩa và tình cảm của các bài đó.
Sở dĩ tư tưởng
tôi biến chuyển tốt như thế là nhờ sự dạy dỗ của Đảng và của Bác. Tôi thấy Bác
rất chăm chú theo dõi các tiết mục văn nghệ của các dân tộc thiểu số, trong đó
có các dân tộc Tây Nguyên chúng tôi. Có lần Bác gửi cho chúng tôi một bó lông
công để dùng trang trí mũ mãng theo phong cách dân tộc. Nhận được bó lông công
đó, chúng tôi cảm thấy không những Bác am hiểu phong tục, nghệ thuật của các
dân tộc Tây Nguyên mà còn tỏ ra rất trân trọng nữa. Bó lông công đó cũng nói
lên một phần Bác khuyến khích chúng tôi trau dồi thêm nghệ thuật dân tộc. Chúng
tôi luôn nhớ lời Bác đã căn dặn: “Cần phải cố gắng học tập để sau này về Tây
Nguyên hướng dẫn lại nhân dân”
(trích từ
sách Bác Hồ với văn nghệ sĩ, NXb. Văn học, H.1995)