Tầm
vóc thời đại của Chiến thắng Điện Biên Phủ
“Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ, nên
thiên sử vàng” - Tố Hữu. Ngày 7-5-1954 quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu”, kết thúc thắng lợi chín năm cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược,
đánh dấu trang sử mới của dân tộc Việt Nam.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp với quyết định lịch sử
Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, chỉ 3 tuần sau ngày Việt Nam tuyên bố
độc lập, thực dân Pháp đã nổ súng tấn công Sài Gòn (23-9-1945), mở đầu cho cuộc
chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa. Với quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không làm nô lệ” và khát vọng “không
có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân Việt Nam đã một lòng đoàn kết quanh
Đảng, Mặt trật Việt Minh, nhất tề đứng lên hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc
với niềm tin tất thắng.
Thực hiện đường lối kháng
chiến “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”, với vũ khí
thô sơ và tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân và dân ta đã lần lượt đánh
bại các kế hoạch quân sự của thực dân Pháp, lập nên những chiến công hiển hách
như: Việt Bắc (1947), Biên Giới (1950), Hòa Bình (1951-1952), Tây Bắc (1952),
Thượng Lào (1953).
Sau gần tám năm tiến hành chiến tranh xâm lược, thực
dân Pháp bị thất bại nặng nề. Lợi dụng lúc thực dân Pháp gặp khó khăn, Mỹ đã
tìm cách nhảy vào Việt Nam, tăng cường viện trợ, tháng 5-1953 Pháp cử tướng
Nava, tham mưu trưởng lục quân khối Trung Âu của NATO, sang làm Cao ủy và Tổng
chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương thay tướng Xalăng.
Ngay sau khi tìm hiểu chiến
trường, kế hoạch quân sự Nava được Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua ngày
24-7-1953 hòng “tìm cách thoát ra khỏi cuộc chiến tranh ở Đông Dương trong danh
dự” trong vòng 18 tháng. Điểm mấu chốt của kế hoạch là tập trung lực lượng cơ
động chiến lược ở đồng bằng Bắc Bộ. Bằng nhiều biện pháp, địch đã đưa tổng số
quân cơ động chiến lược ở Đông Dương lên 84 tiểu đoàn và tập trung về đồng bằng
Bắc Bộ 44 tiểu đoàn nhằm giữ vững “vùng đồng bằng có ích” này bằng mọi giá, để
giành lại sự chủ động chiến lược xoay chuyển tình thế trên chiến trường Đông
Dương, thực hiện đòn tiến công mang tính quyết định khi có điều kiện. Được sự
hỗ trợ của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một cứ
điểm mạnh nhất Đông Dương.
Sớm nhận thấy rõ âm mưu, thủ
đoạn của thực dân Pháp, tháng 12-1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch
Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến “đánh nhanh thắng nhanh”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân
đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan
trọng”. Khi trao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy chiến dịch, Người
căn dặn: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, không chắc thắng, không
đánh”.
Với trách nhiệm trước Đảng,
trước lời căn dặn của Bác Hồ và nhất là trách nhiệm trước sinh mệnh của cán bộ,
chiến sĩ trên chiến trường, sau 11 ngày đêm theo dõi, suy nghĩ và tính toán,
với nhãn quan thiên tài quân sự, với bản lĩnh và kinh nghiệm trận mạc, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đi đến kết luận: Đánh theo cách này nhất định thất bại và
quyết định chuyển sang phương châm “Đánh chắc, tiến chắc”. Đây là một quyết định
táo bạo, dũng cảm, một chủ trương kịp thời chính xác trên cơ sở quán triệt tư
tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh là “đánh chắc thắng”.
17h5 ngày 13-3-1954, quân đội
ta nổ súng tấn công Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch diễn ra qua 3
đợt tấn công. Đợt 1: từ ngày 13-3 đến 17-3-1954, quân ta đánh hai trận then
chốt ở cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ
phía Bắc của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống hơn 2 ngàn quân
địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ một trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh.
Đợt 2: từ ngày 30-3 đến ngày 26-4-1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm
phía Đông phân khu trung tâm, thắt chặt vòng vây, chia cắt, kiểm soát Sân bay
Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Đây là đợt tiến
công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành
giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1 ta và
địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày.
Đợt 3: từ ngày 1 đến 7-5-1954,
quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt
toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vào hồi 17h30 ngày 7-5-1954, ta chiếm
Sở chỉ huy của địch, tướng De Castries cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng”
của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó, quân
ta tiếp tục tấn công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào. Đến 24h
cùng ngày, toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.
Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu
kiên cường, gian khổ, “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non”,
vượt bao mưa bom, bão đạn, chiến dịch đã kết thúc toàn thắng. Thắng lợi của
Chiến dịch Điện Biên Phủ đã làm phá sản hoàn toàn Kế hoạch Nava, đánh bại ý chí
xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán ký với ta
Hiệp định Genève, cam kết chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.
Tầm vóc lịch sử và giá trị thời đại
Thắng lợi của Chiến dịch Điện
Biên Phủ là kết quả tổng hòa của nhiều yếu tố, trước hết là đường lối lãnh đạo
đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, của sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân, của sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, của
đỉnh cao nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Thắng lợi vô cùng oanh liệt
của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa
thực dân cũ trên toàn thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ là một kỳ tích vẻ
vang, một bản hùng ca bất hủ, là chiến thắng rực rỡ của chủ nghĩa yêu nước, ý
chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam anh hùng đã được hun đúc qua
hàng nghìn năm lịch sử, đồng thời cũng là thắng lợi chung của các dân tộc bị áp
bức trên thế giới, đã cổ vũ và góp phần quan trọng vào phong trào đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội của nhân loại.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ có giá trị vô cùng to lớn và mang tầm vóc của thời đại, có ý nghĩa lan tỏa
trên khắp thế giới, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Lần đầu tiên trong
lịch sử, một dân tộc bị áp bức đã đánh bại cuộc xâm lược của một đế quốc hùng
mạnh, đã giành lại độc lập cho dân tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày, đưa lại
quyền dân chủ thực sự cho nhân dân”, “Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta,
mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là
một trong những mốc son chói lọi bằng vàng trong lịch sử chống ngoại xâm của
dân tộc, trở thành biểu tượng sức mạnh của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, là sức mạnh tinh thần, nguồn cổ vũ
lớn lao cho toàn thể Nhân dân ta.