I- Thông tin tổng quan về bệnh Thalassemia.
Thalassemia (còn gọi là Bệnh tan máu bẩm sinh) được thế giới phát
hiện và nghiên cứu từ năm 1925. Tại Việt Nam, bệnh được các nhà khoa học nghiên
cứu vào năm 1960. Bệnh có tỉ lệ gặp phải cao trong các bệnh bẩm sinh. Với những
biểu hiện chính là thiếu máu và thừa sắt, bệnh nhân thalassemia cần
phải được truyền máu và dùng thuốc thải sắt suốt đời. Chỉ với hai biện pháp này
thôi, ước tính chi phí điều trị cho một bệnh nhân thalassemia thể nặng đến 30
tuổi lên đến vài tỷ đồng. Người mắc bệnh tan máu bẩm sinh sẽ bị giảm khả năng lao động và sinh hoạt gây nên những gánh
nặng cho gia đình và cộng đồng.
Việt Nam có khoảng 13 triệu người, tương đương 13% dân số mang gen
bệnh Thalassemia. Trong đó tỷ lệ người dân tộc ít người chiếm tỷ lệ khá cao, từ
20% – 40%, mà một trong những nguyên nhân chính là do kết hôn cận huyết thống.
Mỗi năm có khoảng hơn 10.000 trẻ sinh ra bị bệnh Thalassemia, trong đó có
khoảng hơn 2.000 trẻ bị bệnh nặng.
Việt Nam đã có nỗ lực lớn song việc điều trị mới chỉ giúp cải
thiện tốt cuộc sống của người bệnh chứ không thể chữa khỏi bệnh. Chất lượng
sống của các bệnh nhân bị bệnh Thalassemia rất thấp, số tử vong lớn. Qua báo
cáo thống kê từ năm 2001 đến nay, có khoảng 20% bệnh nhân chết ở lứa tuổi 6 –
7, nhiều em tử vong ở lứa tuổi 16 – 17, hầu hết các bệnh nhân mắc bệnh nặng
không có cơ hội xây dựng gia đình. Hiện nay, số lượng bệnh nhân Thalassemia đã
làm các bệnh viện quá tải, tạo áp lực nặng nề lên ngân hàng máu cũng như những
chi phí về xã hội.
1.
Các
biểu hiện của bệnh Thalassemia.
2.
Mức
độ nặng:
Biểu
hiện thiếu máu nặng, có thể từ ngay sau khi ra đời, thường biểu hiện rõ ràng
nhất khi trẻ được 4 – 6 tháng tuổi và ngày càng nặng hơn. Những biểu hiện
thường gặp: – Trẻ xanh xao; Da và củng mạc mắt vàng; Thường chậm phát triển thể
chất; Có thể bị sốt, tiêu chảy hay các rối loạn tiêu hóa khác; Trẻ lớn có biểu
hiện của biến chứng do tăng sinh hồng cầu và do ứ đọng sắt quá nhiều trong cơ thể
như: Biến dạng xương: hộp sọ to, bướu trán, bướu đỉnh, hai gò má cao, mũi tẹt,
răng cửa hàm trên vẩu, loãng xương làm trẻ rất dễ bị gãy xương; Da sạm xỉn,
củng mạc mắt vàng; Sỏi mật; Dậy thì muộn: nữ đến 15 tuổi chưa có kinh nguyệt…
2.
Mức
độ trung bình:
Biểu
hiện thiếu máu xuất hiện muộn hơn so với mức độ nặng, khoảng 4 – 6 tuổi trẻ mới
cần phải truyền máu. Thiếu máu mức độ vừa hoặc nhẹ (nồng độ huyết sắc tố từ
6g/dl đến 10g/dl). Nếu người bệnh được truyền máu và thải sắt đầy đủ thì có thể
phát triển bình thường và không bị các biến chứng.
3.
Mức
độ nhẹ (hay còn gọi là mang gen:)
Người
mang gen bệnh thường không có biểu hiện gì đặc biệt về mặt lâm sàng. Chỉ vào
những thời kỳ khi cơ thể có nhu cầu tăng về máu như phụ nữ khi mang thai, kinh nguyệt
nhiều…, lúc đó mới thấy biểu hiện mệt mỏi, da xanh, nếu làm xét nghiệm sẽ thấy
lượng huyết sắc tố giảm.
III- Biến chứng nguy hiểm từ bệnh Thalassemia
– Quá tải sắt: Người bệnh có quá nhiều sắt trong cơ thể gây nên
những tổn thương hệ thống nội tiết, gan, tim cũng như các tuyến sản xuất
hormone để điều hòa các quá trình trong cơ thể.
– Tăng trưởng kém: Trẻ bị thiếu máu có thể tăng trưởng chậm, khi
trưởng thành khó đạt chiều cao bình thường, dậy thì cũng chậm hơn.
Và với các bệnh nhân nặng thường có thêm các biến chứng suy tim,
rối loạn nhịp tim, biến dạng xương, suy giảm miễn dịch do lách to, đái
tháo đường, xơ gan…
IV- Cách phòng chống bệnh Thalassemia.
Tuy nhiên, bệnh có thể phòng tránh được khi có hiểu biết đầy đủ về
bệnh và có biện pháp phòng tránh ngay từ hôm nay.
Tầm soát và phòng tránh bệnh từ sớm: với các biện pháp xét
nghiệm, tư vấn tiền hôn nhân. Các cặp vợ chồng chuẩn bị có thai hoặc đang mang
thai, đặc biệt các gia đình đã có người bệnh Thalassemia nên được tư vấn và
chẩn đoán tiền hôn nhân.
Sàng lọc phát hiện bệnh sớm cho thai nhi: phòng ngừa bằng các xét nghiệm tầm soát và chẩn đoán gen đột
biến trong thời thai kỳ. Đây là biện pháp hiệu quả và chi phí thấp. Nếu cả vợ
và chồng đều mang gen thì thai nhi có 25% nguy cơ bị mắc bệnh ở thể nặng,
trường hợp này cần được thực hiện chẩn đoán trước sinh bằng phương
pháp chọc ối hoặc sinh thiết gai nhau và tìm đột biến gen.
Đối với bệnh nhân mức độ nặng và trung bình cần: truyền máu định kỳ và dùng thuốc thải sắt suốt cuộc đời;
đến khám và điều trị đúng hẹn; khám lại ngay khi có dấu hiệu bất
thường như: mệt nhiều, đau tim, khó thở, sốt cao, phù…; phẫu thuật cắt
lách giúp kéo dài khoảng cách thời gian giữa các đợt truyền máu; ghép tế bào
gốc điều trị bệnh, biện pháp này cần phải đáp ứng điều kiện ngặt nghèo hơn như
phải tìm được nguồn tế bào gốc phù hợp, điều kiện sức khỏe đảm bảo, các chi phí
ghép…
Người bệnh Thalassemia có thể sinh hoạt, làm việc, kết hôn và sinh
con khi được điều trị đầy đủ, tuân thủ các phác đồ điều trị và có chế độ dinh
dưỡng, sinh hoạt hợp lý. Chế độ dinh dưỡng cho người bệnh gồm:cân bằng các
chất giàu dinh dưỡng; không ăn thức ăn chứa nhiều sắt (thịt bò, mộc
nhĩ, rau cải xoong…); để hạn chế hấp thu sắt khi ăn từ các thực phẩm
sau bữa ăn nên uống 1 cốc nước chè xanh; bổ sung các thực phẩm giàu
kẽm ( sò, củ cải đường, đậu nành…). Đối với chế độ sinh hoạt cần
hạn chế lao động nặng các hoạt động gắng sức; tránh bị nhiễm
trùng; vận động, tập luyện các môn thể thao nhẹ nhàng, phù hợp…
Thalassemia là bệnh có thể phòng tránh được. Do vậy, việc phòng
tránh, tìm hiểu và được tư vấn, tầm soát gen bệnh sớm, trước kết hôn sẽ hạn chế
được nguy cơ sinh ra những đứa trẻ mang gen hoặc bị bệnh, góp phần đảm bảo chất
lượng dân số cho cộng đồng.