Xuân Tân Tỵ, năm 1941, Bác mới được đặt chân trở về giữa lòng Tổ quốc thân yêu sau đúng 30 năm trời ra đi tìm đường cứu nước (1911-1941). Hành trang theo Bác trở về vẻn vẹn chỉ có một chiếc va ly xách tay bằng
mây, trong đựng hai bộ quần áo đã cũ và tập tài liệu Con đường giải phóng tập hợp
những bài giảng trong lớp huấn luyện ở Nậm Quang (Quảng Tây, Trung Quốc) do Bác
phụ trách vừa mới kết thúc trước Tết mấy hôm.
Bác Hồ chúc Tết đồng bào tỉnh Hà Bắc năm 1967
Mùa Xuân năm ấy, từ hang Pác Bó đã ra đời một bài thơ Xuân tuyệt đẹp của
Bác Hồ:
"Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lênin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà"
Chỉ hơn bốn năm sau, ngày 2-9-1945, sơn hà của Tổ quốc đã được thu về một
mối, từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau. Hồ Chí Minh trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Và mùa Xuân độc lập đầu tiên, Xuân Bính Tuất năm
1946 đã trở về trên toàn cõi đất nước với một sắc màu khác lạ làm gợi nhớ đến một
thời Nghiêu Thuấn xa xưa. Vào thời khắc mọi gia đình quây quần bên nhau chuẩn bị
đón giao thừa thì vị Chủ tịch nước xắn quần, bước thấp bước cao đến các ngõ hẻm
ở phố Sinh Từ, phố Hàng Lọng... để được chính mắt nhìn thấy cảnh Tết vừa, Tết
nghèo của bà con lao động Hà Nội mới vừa thoát khỏi ách thực dân phong kiến.
Chính trong cuộc "vi hành" đêm Ba mươi Tết của mùa Xuân độc lập
đầu tiên đó, Bác Hồ đã chứng kiến cảnh gia đình một người đạp xích lô "Tết
mà không có Tết" ngoài một nén hương đang cháy dở trên bàn, còn chủ nhà
thì đang đắp chiếu nằm mê mệt vì ốm. Bác đã xúc động lấy khăn lau nước mắt, lặng
lẽ bước ra khỏi nhà, bảo đồng chí thư ký ghi lại địa chỉ để hôm sau báo cáo cho
đồng chí Chủ tịch Hà Nội biết.
Cũng đêm 30 Tết Bính Tuất đó, đúng giờ giao thừa, khi Đài Tiếng nói Việt
Nam truyền khi khắp đất nước lời chúc mừng năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
thì chính Người lại đang vui Xuân cùng nhân dân ở đền Ngọc Sơn, trong vai một cụ
già cùng cháu đi hái lộc.
Lần đầu tiên nhân dân Hà Nội, nhân dân cả nước, được hưởng một mùa Xuân
mới mẻ, giao thừa nghe đọc thư chúc Tết của Bác Hồ:
"Hỡi đồng bào cả nước! Hôm nay là mùng một Tết năm Bính Tuất, ngày Tết đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà. Tôi thay mặt Chính phủ chúc đồng bào năm mới muôn sự tốt
lành".
Cuối thư là một bài thơ ngắn:
"Trong năm Bính Tuất mới
Muôn việc đều tiến tới
Kiến quốc chóng thành công
Kháng chiến mau thắng lợi"
Kể từ mùa Xuân đầu tiên đó, suốt 24 năm làm Chủ tịch nước, mỗi lần Tết đến,
Xuân về, Bác lại nghĩ đến dân, lo sao cho dân có một mùa Xuân ấm no, hạnh phúc.
Thường thì trước Tết ba tháng, Bác đã nhắc các cơ quan, các ngành chuẩn bị Tết
cho dân. Riêng Bác cũng tự mình chuẩn bị sớm ba việc. Tìm ý thơ cho bài thơ mừng
năm mới, nhắc văn phòng chuẩn bị thiếp "Chúc Mừng Năm Mới" để kịp gửi
đến những nơi xa xôi nhất, kể cả bộ đội ở các vùng rừng núi, hải đảo xa xôi và
cán bộ công tác ở nước ngoài.
Và cuối cùng là một chương trình đi thăm dân không thể thiếu đối với
Bác, một chương trình riêng mà chỉ Bác và các đồng chí cảnh vệ biết.
Tối Ba mươi Tết năm 1960, Bác đến thăm gia đình mẹ con chị Tín, một lao động
nghèo ở phố Hàng Chĩnh, Hà Nội. Chiều mùng hai Tết năm 1961, Bác đến Văn Miếu dự
buổi bình thơ Xuân của các cụ. Mùng hai Tết năm 1962, Bác đến thăm các cháu học
sinh miền Nam ở Hải Phòng. Chiều 29 Tết năm 1963, Bác cải trang thành một cụ
già theo cháu đi chợ hoa và chợ Đồng Xuân... Tất cả đều bí mật bất ngờ và do đó
bao giờ cũng tạo hiệu quả lớn.
Như Tết năm 1960, nếu Bác chỉ đến thăm các gia đình theo chương trình của
các cơ quan đã bố trí thì làm sao Chủ tịch nước biết được gần đến giao thừa rồi
mà chị Tín vẫn còn phải đi gánh nước thuê đổi gạo để sáng mai mùng một Tết có cơm
ăn cho bốn đưa con của mình. Gặp Bác, chị Tín xúc động để rơi cả đôi thùng gánh
nước xuống đất, run run cầm lấy bàn tay của Bác:
- Cháu không ngờ lại được Bác đến thăm...
Chỉ nói được vậy, chị đã oà lên khóc nức nở.
Vị Chủ tịch nước đã an ủi chị:
- Bác không đến thăm những gia đình như cô thì thăm ai...
Và Bác đã vào nhà thăm hỏi khá lâu năm mẹ con chị Tín. Gọi là nhà nhưng đâu
có phải là nhà mà là một cái chái như một túp lều. Chồng chị Tín là công nhân
khuân vác ở bến Phà Đen đã mất cách đó bốn năm, còn chị thì cho đến lúc này vẫn
chưa có việc làm ổn định. Cảnh nghèo của gia đình đã phũ phàng hiện ra trước mắt
Bác. Trên chiếc bàn gỗ mục chỉ có một nải chuối xanh và một gói kẹo. Đúng là
"Ba mươi Tết mà không có Tết". Cách đây 15 năm, Tết Độc lập đầu tiên,
Bác đã đau lòng chứng kiến cảnh một gia đình "Tết mà không có Tết" ở
ngõ hẻm Sinh Từ. Đó là khi đất nước mới thoát khỏi vòng nô lệ. Còn bây giờ,
kháng chiến đã thắng lợi, hoà bình đã sáu năm, mà lại còn cái cảnh này sao?
Không phải ở đâu xa mà ở ngay Thủ đô Hà Nội... Vậy còn bao nhiêu gia đình như
thế này ở khắp mọi miền đất nước? Cứ ngồi nghe báo cáo thì đâu cũng là no ấm, tươi
vui...
Đêm ấy, trên đường về, ngồi trên xe, Bác Hồ trầm ngâm suy nghĩ. Vẻ đăm
chiêu thoáng hiện trên gương mặt của Người. Bác đã từng tâm sự với các đồng chí
phục vụ: "Một ngày dân chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc, các cháu chưa được học
hành, mọi người còn khổ thì Bác ăn không ngon, ngủ không yên".
Về đến
nhà, các đồng chí Bộ Chính trị đang chờ Bác để chúc mừng năm mới. Mọi người băn
khoăn khi thấy Bác không vui. Bác kể lại hoàn cảnh gia đình chị Tín cho mọi người
nghe. Cuối câu chuyện Bác nói "Ta có chính quyền trong tay, nhưng chính
quyền đó chưa thực sự là do dân, vì dân. Một số lãnh đạo các địa phương còn
quan liêu và nặng về hình thức. Họ không chịu đi sâu, đi sát quần chúng, nên phục
vụ quần chúng chưa tốt. Nếu chúng ta chỉ nghe báo cáo của họ thì sẽ không bao
giờ nắm được chính xác tình hình để có chủ trương, nghị quyết đúng đắn. Đảng
quan liêu, chính quyền quan liêu, thực sự là một nguy cơ đối với đất nước chúng
ta.